Wednesday, September 24, 2008

Kẻ Phá Đám -- Chương 3



KẺ PHÁ ĐÁM
Tác giả: Julie Garwood
Chuyễn ngữ: Văn Hòa - Kim Thùy


CHƯƠNG 3


Con đường săn đuổi của John Paul Renard dẫn đến Utopia. Anh săn đuổi tên giết người chuyên nghiệp đã hơn một năm nay, nhưng không mấy thành công. Việc thành công mới đây được mọi người biết đến xảy ra ở Riviera, anh đã khử được một gã bị truy nã có tên là John Russell. Nhưng từ vụ ấy đến nay, tên giết người mà anh săn đuổi có tên là Monk hình như đã biến mất trên mặt đất. Anh nghe người ta đồn hắn qua làm ăn ở Paris và ở Cannes, nhưng không có chứng cớ gì chính xác để anh tin là hắn hiện đang ở bên ấy.

Mãi cho đến bây giờ anh mới biết chính xác.

Khi John Paul phục vụ trong ngành Thủy quân Lục chiến và rồi làm việc trong một thời gian ngắn trong Cục Tình báo, anh đã học được tính kiên nhẫn. Anh nghĩ rằng cuối cùng tên giết người sẽ quay về Hoa Kỳ. Linh cảm cho anh ta tin thế, nhưng lạ thay, điều anh linh cảm đã hóa ra đúng. Chỉ mới cách đây ba tuần, Monk bỗng xuất hiện trở lại. Hắn đã lộng hành một vài nơi. Hắn sử dụng một trong những thẻ tín dụng cũ của hắn. Làm thế là điều rất bất cẩn và rất không đúng với một người mà mãi cho đến bây giờ chưa có sai sót gì trầm trọng trong các hoạt động phi pháp của mình. John Paul tự hỏi phải chăng Monk đã vứt cái thẻ đi và có ai đấy tìm ra và sử dụng nó.

Việc này đáng phải được kiểm tra. Một cuộc tấn công đã diễn ra tại một suối nước khoáng ở Colorado có tên là Utopia có liên quan đến một phụ nữ tên Carolyn Salvetti. John Paul kiểm tra tài khoản tín dụng của bà ta, anh phát hiện ra rằng bà có rất nhiều tiền cất tại ngân hàng IRA và kế hoạch dưỡng già của bà ta là mua hai cái suối nước khoáng. Chuyện này có liên quan gì đến Monk không? Có phải bà ta thuê gã để giết ai đấy? Hay bà ta là nạn nhân sắp đến của hắn.

John Paul còn kiểm tra tên bà qua cơ sở dữ liệu của chính phủ. Anh sử dụng mật mã cũ của mình để lấy thông tin, anh biết rất rõ rằng khi anh khai thác thông tin trên cơ sở dữ liệu này, những người săn đuổi gã sẽ biết chuyện ngay tức khắc, và họ sẽ ngộ nhận là hắn chuẩn bị quay về. Vì thế mà anh không mở máy lâu. Chỉ trong vòng chưa đầy hai phút là anh đã tìm được điều anh muốn biết. Salvetti là người rất tài tình. Không có lệnh bắt giữ tống đạt, không bị phạt vì đậu xe sai chỗ, không hoạt động chuyện gì phi pháp. Chồng bà cũng sạch sẽ. Carolyn Salvetti là Phó giám đốc.

Cơ sở dữ liệu không cho anh câu trả lời nào hết. Nếu Carolyn Salvetti là mục tiêu kế tiếp của Monk, thì ai đã thuê hắn? Ai muốn giết bà này?

John Paul quyết tìm cho ra. Vì anh của John, Remy, sống ở Colorado Springs, nên anh định lái xe đến đấy thăm anh ta.

Mọi người ở thành phố quê nhà của John, Bowen, Louisiana, đều xem anh như người ẩn cư khó tánh, nên khi anh mua chiếc xe Ford SUV cũ, gia đình và bạn bè anh đều sửng sốt kinh ngạc. Anh thay đổi một ít, tăng công suất của máy, ráp vào hai chiếc ghế ngồi ở bếp mà anh đã làm cho Remy, rồi anh lái xe chạy.

Anh chỉ ở chơi với anh trai hai hôm, đến ngày 16 tháng sáu, ngày Salvetti có kế hoạch đến suối nước khoáng, John Paul đến đó để đợi bà ta. Anh hy vọng rằng Monk sẽ bám theo bà ta, và anh có thể thộp được thằng khốn nạn.

Carolyn Salvetti không có mặt ở đấy. Người thư ký trực nhật, một gã thanh niên có vẻ quá căng thẳng, lo lắng với hàm răng to vẩu một cách kỳ lạ, nói với John Paul rằng bà Salvetti đã hủy chỗ giữ trước vào giây phút cuối.

Nhưng đây có ghi ngay dưới chỗ giữ chỗ cũ là cháu của bà ấy, Avery Delaney, sẽ đến ở tại suối nước khoáng.

- Cô Delaney sẽ ở tại đây một tuần, -- Anh suy nghĩ rồi nói thêm như thế. -- Như thế là quá rõ ràng rồi phải không?

Thay vì trả lời câu hỏi, gã yêu cầu anh đến nói chuyện với ông quản lý. Người thư ký vội vã quay gót, vấp chân suýt ngã, rồi gã chạy đi tìm ông chủ.

Một phút sau, Tim Cannon hiện ra, người nhân viên lẽo đẽo sau ông ta. Vì John Paul đã hết làm cho cục tình báo, nên anh không có chứng minh thư để chìa ra cho gã đàn ông nhỏ con môi mím chặt, rịn mồ hôi xem, cho nên anh phải dùng phương pháp dọa dẫm. Như mọi khi, phương pháp này rất có hiệu nghiệm. Có nguyên do gì đấy mà anh không hiểu, người ta thường tỏ ra sợ anh. Em gái của anh, Mitchelle, nói với anh rằng vì anh to cao và vì anh ít cười. Mặc dù anh ngạc nhiên vì thấy người lạ xa lánh anh, nhưng anh thường lợi dụng sự lo sợ này của họ. Cannon cứ tin rằng John Paul làm việc cho nhà nước. -- Ông ta tin vì John Paul gợi ý nhưng không khẳng định. -- Cho nên ông ta bối rối, điều này xác nhận rằng ông ta sợ John Paul, nên đã không gọi bảo vệ hay là đòi xem giấy chứng minh. Thực tế là người quản lý không làm gì để giúp anh nhiều hơn. Ông ta mời anh vào phòng làm việc của mình, rồi lắp bắp nói với anh rằng ông ta phải đi giải quyết vài thứ lặt vặt rất gấp, rồi ông ta ra khỏi văn phòng, đóng cửa lại.

Ngay khi ông ta đi rồi, John Paul bật máy tính của Cannon lên, tìm mạng, rồi đánh mã nhận thông tin của mình. Anh rất ghét kỹ thuật, nhưng đây là con đường duy nhất anh có thể có thông tin anh cần. Anh muốn xem thử người ta đã báo động về sự hiện diện của Monk chưa, anh ngạc nhiên sung sướng khi thấy không có dấu hiệu gì cho thấy họ đã biết. Khu suối nước khoáng chưa có nhân viên mật vụ bao vây -- theo ý kiến của John Paul thì nhân viên mật vụ dễ nhận ra như các nữ tu mặc áo đen -- tức là Cục điều tra liên bang không biết chuyện Monk đã trở về Hoa Kỳ. John Paul không có ý định nói cho họ biết. Cơ quan FBI chỉ làm cho vấn đề náo động lên. Monk sẽ thấy nhân viên mật vụ, gã hoảng sợ và lại biến mất mà thôi.

John Paul sẽ không để cho việc này xảy ra. Anh sẽ đi trước Cục Điều tra, anh chỉ muốn có thể. Anh có lý do cá nhân để săn đuổi tên giết người, và anh sẽ không để cho bất kỳ ai cản đường anh.

Cách đây hơn một năm, Monk đã cố giết em gái anh, Michelle, và nếu không có chồng cô ấy và người bạn, thì chắc hắn đã thành công. Monk chạy trốn, nhưng theo suy nghĩ của John Paul thì không thể tha thứ cho hắn được. Anh thề chừng nào mà anh chưa bắt được thằng khốn nạn để giao cho pháp luật thì anh chưa được yên nghỉ.

Khi bắt đầu đi săn tìm tên giết người, lòng căm thù của anh càng lúc càng gia tăng. Đặc biệt có một vụ đã làm cho anh quá bức xúc. Một người bố đã thuê Monk giết đứa con gái vị thành niên để cho gã nhận tiền bảo hiểm và trả nợ đánh bạc. Cơ quan FBI biết Monk đã giết cô gái, vì tên giết người thường để lại đóa hồng sau khi giết người xong, và mặc dù người bố đã phi tang bằng chứng, nhưng trên tấm vải trải giường của cô bé còn sót lại cái gai. Không có ai than khóc hay tìm công lý cho cô gái. John Paul biết có nhiều nạn nhân mà cơ quan FBI chưa biết đến. Bao nhiêu người vô tội chết trước khi tên sát nhân bị bắt?



Kẻ Phá Đám -- Chương 2


KẺ PHÁ ĐÁM
Tác giả: Julie Garwood
Chuyễn ngữ: Văn Hòa - Kim Thùy



CHƯƠNG 2


Hôn nhân không hợp cho những người khó tính. Cả chồng lẫn vợ, nếu muốn hôn nhân bền vững, đơm hoa kết trái, thì cả hai phải đồng lòng dẹp bỏ tự ái trong lòng. Họ phải để cho lòng tự ái chìm xuống đống bùn dơ bẩn. Dĩ nhiên không tránh khỏi sai lầm, nhưng với tình thương và lòng tha thứ như dòng nước tẩy sạch hết lỗi lầm, hàn gắn vết thương lòng giữa họ.

Đồ hủ lậu, Carolyn Delaney Salvetti ngồi mở to mắt với vẻ kinh ngạc khi cô nghe người cố vấn hôn nhân lải nhải lên mặt dạy đời trích từ những câu trong cuốn cẩm nang tự biên tự soạn của y, cuốn sách có nhan đề rất kêu và lố lăng: Hãy dẹp bỏ tự ái của mình. Anh chàng ngu đần này đang nói đến hôn nhân hay chuyện dẹp bỏ tự ái nhỉ? Carrie không biết, và ngay khi ấy cô chẳng thèm quan tâm.

Không muốn để lộ sự bất mãn ra mặt, cô kéo tay áo lụa lên khỏi cổ tay để nhìn chiếc đồng hồ của nhà hàng Carter. Đã 10 phút trôi qua. Lạy Chúa, cô có thể chịu đựng lâu đến thế sao?

Cô hít vào một hơi thật sâu, thả tay áo xuống, dựa người ra lưng ghế bọc nệm êm ái, gật đầu ra vẻ tán thưởng để cho chồng và gã ngu đần tin rằng có cô chú ý nghe.

Hôn nhân không thích hợp cho người khó tính, ông ta lặp lại bằng giọng mũi rề rề, thấp. Giọng ông ta khét lẹt khiến cho thần kinh của cô khó chịu.

Người cố vấn là tay đại bịp huênh hoang, vênh váo, mập mạp, cứ nhất quyết đòi mọi người gọi mình là tiến sĩ Pierce, vì ông ta cảm thấy gọi ổng bằng cả họ và tên tiến sĩ Pierce Ebricht nghe quá khách sáo cho việc thảo luận thân mật như thế này. Nói tóm lại, ông ta được xem như là người giúp đỡ họ bộc bạch hết nỗi lòng. Sau lần giải độc đầu tiên, Carrie gọi ông ta là tiến sĩ ngu. Chồng cô, Tony, đã chọn ông ta làm cố vấn là vì ông ta "hợp" với thời trang. Người cố vấn, có bằng tiến sĩ hẳn hoi, là vị thầy tân tiến nhất cho những ai cần nhờ đến ông ta phục hồi hôn nhân cho bền vững. Tiến sĩ Pierce là tiến sĩ Phil đối với giới giàu có và có tiếng tăm, nhưng không giống tiến sĩ Phil, anh chàng ngu này hoàn toàn là một tên hề.

Thế nhưng, Tony cũng là anh chàng hề. Anh ta ngồi bên cạnh Carrie, hai lòng bàn tay ướt mồ hôi chắp lại như đang cầu nguyện, vẻ mặt chăm chú, thành khẩn, như con rối bằng gỗ do người cố vấn tạo ra, mỗi khi tiến sĩ ngu dừng lại đọc cuốn Kinh Thánh của y để nhìn lên với thái độ trông chờ, thì anh ta gật đầu tán thưởng.

Cắn môi là cách duy nhất để Carrie khỏi cười ... hay khỏi hét lên. Ôi cô muốn hét lên biết bao. Nhưng cô không dám. Cô đã mặc cả với ông chồng đê tiện, nếu cô không giả vờ làm ra mình đang muốn cứu vãn cuộc hôn nhân đang đứng trước viễn tượng tan vỡ, thì chắc cô phải trả trợ cấp suốt đời. Viễn tượng này làm cô lo sợ.

Lợi thế không nghiêng về phía cô. Tony xuất thân trong dòng họ thọ đến trăm tuổi. Ông bác sĩ Enzo của anh ta đã già đến 86 tuổi và còn chạy máy ép nho nấu rượu vang tại mảnh đất tí tẹo trên phần đất phì nhiêu ở Napa, và h2inh như sức khỏe không sa sút tí nào. Ông ta chỉ bớt hút thuốc Camel không có đầu lọc để bảo tồn sức khỏe vào năm 85 tuổi -- Ông ta có thói quen hút một ngày ba gói -- và gia tăng ăn tỏi trong các bữa ăn, kể cả với bánh mì nướng bằng lúa mạch vào buổi sáng. Nếu Tony mà sống khỏe mạnh, cường tráng như Enzo, khi Carrie đã cằn rỗi, thì chắc cô sẽ bị vắt hết tài chính không còn để lại chút gì cho đứa cháu thân yêu, Avery. Trái lại, nếu cô thuận theo Tony đến dự 10 buổi nghe tiến sĩ ngu giảng giải, và cuộc hôn nhân vẫn kết thúc -- Theo cô thì sẽ thế -- thì, Tony đã hứa, gã sẽ không quan tâm đến công việc kinh doanh và không đòi một xu trợ cấp nào.

Carrie không phải điên. Vốn đa nghi, cô không dễ gì tin lời của người mà cô xem có thói quen nói láo và có máu trộm cướp. Đã có một trăm hai mươi ba ngàn đô la bị mất khỏi một trong những tài khoảng kinh doanh của cô. Cô không chứng minh được Tony đã lấy khoản tiền ấy, nhưng cô tin anh đã lấy, có thể để mua quà tặng đắt tiền cho tình nhân. Đồ khốn nạn. Thế cho nên, để đảm bảo anh ta không đổi ý và chạy theo cô đòi tiền trợ cấp, cô đã buộc anh ta hứa bằng cách viết lên giấy, rồi mọi người phụ tá của cô làm chứng việc chồng cô ký vào giấy tờ. Bây giờ tờ giấy đã được cất kỹ trong hộp cất đồ an toàn tại Ngân hàng Thương mại Thứ Nhất.

Làm sao họ đến nông nỗi này nhỉ? Cô tự hỏi. Tony thường là người dễ thương và biết suy nghĩ.

Carrie nhớ cái đêm cô thức dậy vì quá đau đớn. Cô biết mình đau vì ăn phải ngộ độc thức ăn -- họ đã đi ăn tại nhà hàng Thái mới mở, nơi bạn bè của cô rất thích đến ăn. Cô không chịu đi nhà thương, và Tony đã ngồi bên cô, lo lắng. Cuối cùng anh ta bế cô ra xe, chở đến bệnh viện. Đêm đó anh đã cứu sống cô. Sau khi đã điều trị ở phòng cấp cứu, cô xác nhận điều đó, và Tony ngồi ở ghế canh chừng cô suốt cả đêm. Anh làm cho nhân viên bệnh viện phải khâm phục vì chịu đựng những lời phàn nàn và yêu cầu đủ thứ của cô, rồi còn chất đầy phòng đủ thứ hoa cúc, loại hoa cô thích nhất.

Tony rất có sức thu hút quần chúng. Mẹ kiếp, bây giờ ông ta vẫn còn, có lẽ vì thế mà tất cả bọn trẻ muốn làm minh tinh cứ bao quanh lấy anh ta. Phải chăng sự cám dỗ quá lớn không thể cưỡng lại được. Nói tóm lại, cô đang trở nên già, năm tháng chồng chất lên đầu cô thấy rõ. Có phải đây là lý do khiến cho anh ta không trung thành?

Cô lại lén xem đồng hồ, cố nén tiếng thở dài. Trong năm phút nữa thôi là buổi giảng hòa cuối cùng sẽ chấm dứt và cô sẽ khỏi cần giả vờ tử tế với tiến sĩ ngu nữa. Rồi, ông ta có thích hay không, cô cũng sẽ đi bồi bổ lại sức khỏe của mình. Áo quần Prada dùng tập thể dục ngoài trời đã tộng hết vào xách Gucci rồi, cùng với máy tính xách tay hiện đại nhất, ba hộp pin, và hai máy điện thoại di động ... Hành lý đã chất vào thùng chiếc xe lớn đợi đưa cô từ văn phòng tiến sĩ ngu ra phi trường.

Chuyến đi nghỉ hè bắt buộc này là lần đầu tiên cô đi khỏi công ty của mình, công ty Star Catcher (Quảng cáo minh tinh) trong thời gian hơn tám năm, và cô hết sức lo lắng. Cô có số nhân viên giải quyết bất cứ vấn đề khó khăn gì, nhưng cô là người rất muốn kiểm soát các hoạt động trong công ty, nên cô không muốn để cho người khác quyết định công việc của mình với thời gian 14 ngày. Theo Avery, Carrie thuộc nhóm có cá tính loại A. Cô không thể chịu đựng được cảnh sống lười biếng và buồn bã. Thậm chí khi cô cưới Tony, cô cũng kh6ong đi hưởng tuần trăng mật. Đợt nghỉ cuối tuần ngắn ngủi ở Baja cô xem như đã đi xa khỏi công ty còn non yếu của mình mất một năm trời, và đây là điều thật mỉa mai, vì trong thời gian này cô được xem như đang thời yêu đương.

Khu nghỉ mát Utopia Spa đã gởi giấy báo để dành phòng của Carrie cách đây ba tuần rồi, giấy báo in chữ nổi màu vàng rất sang trọng, giấy đến ngay sau lần giảng hòa thứ ba với tiến sĩ ngu. Sau khi nhìn vào tờ giấy mời, Carrie tin chắc có Tony đứng đàng sau vụ này, vì anh ta rất muốn cô đi khỏi LA. Chồng cô giả vờ ngạc nhiên, nhưng cô không phải là ngu. Anh ta giục cô tranh thủ thời gian đi xa nghỉ lâu hàng tháng và dùng thời gian xa cách này để hàn gắn cuộc hôn nhân đang gặp cơn sóng gió.

Dù cô vặn hỏi bao nhiêu, anh cũng không nhận rằng anh cố tìm cách để cô đi xa. Anh khăng khăng nói rằng anh không lấy chỗ cho cô hay trả phí tổn quá đắt, và vì anh còn quá cứng đầu hơn cô nhiều, nên cuối cùng cô bỏ ý định tìm cho ra sự thật trong vụ này.

Giấy báo để dành chỗ có kèm theo tập sách mỏng miêu tả tỉ mỉ cơ sở vật chất sang trọng và giới thiệu cách cư sử lịch sự của nhân viên ở Utopia. Lại còn có kèm thêm bức thư với danh sách các danh nhân thường đến nghỉ ở đây xác nhận các điều miêu tả là đúng.

Cô đã nghe tiếng suối nước khoáng -- mọi người ở Hollywood đều biết suối này -- nhưng cô không rõ con suối nổi tiếng như thế nào với giới giàu sang danh vọng. Vì giá đắt kinh khủng, cô không hề nghĩ đến chuyện đến đây.

Carrie rất lo lắng. Việc đi nghỉ này có quan trọng gì cho cô không? Ngồi ăn uống trong những nhà hàng "thời thượng" ở LA mới là điều tối quan trọng vì mọi người sẽ thấy mình, sẽ chú ý đến mình, còn đến suối nước khoáng thì có ai thấy đâu? Ở đấy quá yên tĩnh, quá đẹp đẽ, ngoài một số khách đến đấy, thử hỏi có ai biết cô có đến đó? Liệu chủ nhân ở đấy có yêu cầu cô cho lời xác nhận không? Lạy Chúa, làm thế không tuyệt vời hay sao? Nếu tên cô được nằm trên danh sách những người giàu sang danh vọng, chắc công ty của cô sẽ phát triển mạnh lên đáng kể lắm chứ. Trong nghề của cô ở thời đại bây giờ, điều duy nhất đáng làm là gây ấn tượng mạnh cho mọi người và làm cho họ lác mắt, thèm thuồng. Chỉ có những người thượng lưu mới không cần làm gì hết mà cũng có công việc ở Hollywood.

Nhưng có cái gì bảo đảm là cô sẽ có tên trên danh sách đám người giàu sang danh vọng đó? Carrie làm bài tính, hình dung ra cảnh hàng ngày cô phải tiêu xài bao nhiêu tiền, cô bèn quyết định ở nhà. Cô không để cho Tony xài phí tiền bạc của cô nữa. Sáng mai cô sẽ gọi đến suối nước khoáng để yêu cầu họ hoàn lại tiền thuê phòng. Không tội gì cô phải xài tiền quá nhiều như thế. Chắc cô đã hét lớn những lời này với Tony ít ra là năm lần trước khi anh ta đọc lớn tên của những người thường đến suối nước khoáng để phục hồi sức khỏe và hết lời tán dương suối nước khoáng Utopia. Khi cô nghe đến tên của Barbara Rolands, cô liền thôi la hét. Mọi người đều biết cô đào lớn tuổi đã có ba giải Oscar này cũng như biết cô ta đã căng da mặt rất đẹp ở bờ biển. Hồi năm ngoái, Barbara đã biến mất ba tuần, rồi khi cô xuất hiện lại trước công chúng tại một buổi quyên góp gây quỹ cho phong trào thời trang, cô ta trông trẻ đẹp kinh khủng. Có phải cô ta nhờ suối nước khoáng mà được thế không?

Carrie giật xấp giấy trên tay Tony. Cô đọc tên những nhân vật được mời đến phục vụ các nhu cầu của khách hàng. Đầu danh sách là hai nhà phẫu thuật thẩm mỹ lừng danh.

Liệu cô có cần những ông bác sĩ đã cải thiện sắc đẹp cho rất nhiều nhân vật quan trọng của thế kỷ này làm tăng thêm nhan sắc cho mình không? Chỉ có Chúa mới biết cô có thể làm điều này hay không. Không căng da mặt -- Cô chưa đến 45 -- nhưng dưới hai mắt cô bị phồng ra nhiều, chắc cô cần phải làm cho chúng xẹp xuống. Thiếu ngủ, làm việc quá nhiều giờ, uống 20 tách cà phê mỗi ngày mà không hề vận động cơ thể, những chuyện này đã làm hại sức khỏe của cô rất nhiều.

Theo bức thư, cô sẽ bay từ L.A. đến Denver, rồi đáp máy bay nhỏ đi Andrewspen. Utopia nằm sâu trong núi, cách nơi nghỉ mát trượt bằng gần nhất là 15 phút đường đi. Cô sẽ đến vào lúc trời bắt đầu tối, và sáng hôm sau cô sẽ được bác sĩ ở đây chăm sóc sắc đẹp. Cô nhận thấy một trong những lời đề nghị của họ đáng được chấp nhận, nhất là hút bớt mỡ. Tiến trình theo sau là xoa bóp toàn thân.

Làm sao cô từ chối được? Thật vậy, làm sao cô từ chối được nhất là sau khi Tony nói cho cô biết rằng món quà biếu nặc danh này khỏi phải trả tiền. Cô biết anh ta đã dùng tiền của công ty để trả cho chuyến đi này. Anh ta không tiết kiệm được một đồng. Từ ngày họ hợp nhất hai công ty, cô đã đem vào cho công ty tài khoản nhiều triệu đô la đầu tiên, thì anh ta sống rất đế vương. Anh ta không hề lo làm ăn.

Tony nói rằng tiền để cho cô đi chơi xuất phát từ đâu chẳng thành vấn đề, anh cho biết việc cô đi nghỉ hè xem như món quà sinh nhật sớm của cô. Anh ta tin rằng không ai từ chối món quà tặng chân thành như thế. Anh nói với cô rằng anh hy vọng cô sẽ dùng thời gian nghỉ ngơi này để suy gẫm về những lời khôn ngoan của tiến sĩ ngu nói về sự cao cả trong hôn nhân. Cô nghĩ, Tony hy vọng rằng, khi cô đã bình tĩnh trở lại, như hành động thường thấy khi người ra đi nghỉ hè, thế nào cô cũng nhận ra cô đã sai lầm khi đổ lỗi lên đầu anh ta, và thế nào cô cũng cảm thấy cô còn yêu anh.

Carrie đã có chương trình hoạt động riêng mình. Trong khi cô phải được "tu sửa" lại, thì cô muốn tiếp tục nghĩ ra cách quảng cáo ác liệt để làm cho công ty cô có tiếng vang khác. Từ ngày cô nhận được phần thưởng sau cùng đến nay đã lâu rồi, đã bốn năm rồi, cho nên cô càng lo. Nghề quảng cáo là nghề kinh doanh rất khốc liệt, các công ty cạnh tranh với cô, hầu hết có cơ sở ở Manhattan đều rất ác liệt. Nhóm người tuổi đôi mươi đều chiếm lĩnh thị trường. Các ủy viên quản trị các công ty không muốn nói chuyện với các ông bà đã trên 30, vì thế mà Carrie đã thu nhận thêm ba nhân viên còn trẻ để thủ vai chính. Cô đã gọi nhóm chuồng nhiệt mười chín đôi mươi này là em bé của cô.

Việc Carrie phải chạy theo thời trang là điều cấp bách. Trong nghề cô, thành quả trong quá khứ không thành vấn đề. Với cái đà cạnh tranh nhau để giành ảnh hưởng trên thương trường, công ty Star Catcher không thể ngồi yên tại chỗ. Hollywood là thành phố hay thay đổi. Người làm nghề kinh doanh quảng cáo phải quan tâm đến các biến động xảy ra hàng ngày. Nếu Carrie không thúc đẩy nhân viên kiếm ra tiền nhiều cho công ty, tức là cô đã thuộc vào loại lạc hậu rồi.

Cô nợ cháu gái lần cô ấy tạo được tiếng vang đầu tiên. Khi cô đào vị thành niên cô đã thuê bỗng nổi chướng, làm eo, đòi cô phải tăng gấp đôi lương vào giờ phút chót, cô bèn xin Avery nhảy vào thay chân cô bé. Cô gái ngu ngốc nghĩ rằng cô ta đã bắt bí được công ty Star Catcher vì thời giờ đã eo hẹp, và nếu Avery không đến phim trường với Carrie hôm đó, thì chắc cô đã phải trả cho con đĩ bé con số tiền gấp đôi rồi. Avery đã cảm thấy hết sức xấu hổ khi phải làm theo những điều Carrie yêu cầu, nhưng nhờ có giọng tốt và có thân hình tuyệt vời, nên cô đã đạt được yêu cầu. Chương trình quảng cáo nhiều kỳ trên ti vi của cô đã thành công rực rỡ, và Carrie, xem như người đại diện cho Avery, có thể dùng cô làm việc ít ra là một năm. Nhưng Avery không quan tâm đến việc này. Khi đợt nghỉ mùa xuân chấm dứt, cô về đi học tiếp cho hết bậc trung học rồi vào đại học.

Cô cháu gái tiếp tục làm việc với Carrie vào mỗi mùa hè, nhưng cô ghét việc rời khỏi văn phòng để đi gặp các ủy viên điều hành của các công ty. Carrie không thể nào hiểu nổi sự dè dặt của cô. Hình như Avery không biết rằng, như Tony thường nhận xét, cô đã bị loại -- hay là cô biết mà cô chẳng cần phải lưu tâm.

Vấn đề khó khăn với cô cháu là Avery không sống ngoài mặt chút nào hết. Cô dịu dàng, khỏe mạnh và phân biệt rạch ròi cái gì là quan trọng trong đời sống và cái gì là không. Nhưng Carrie đòi hỏi cái gì nữa? Nói tóm lại, cô đã dạy cháu mình biết phân biệt các thứ như thế. Mỉa mai thay, Carrie nghĩ, chính cô cuối cùng đã làm việc trong môi trường đòi hỏi phải sống ngoài mặt. Cô đã hóa ra người đạo đức giả. Liệu khi nào cô mới sống thật với những điều cô đã giảng dạy cho Avery? Có lẽ phải đợi khi nào cô làm ra được hai triệu đô la nữa ư?

Cuối cùng Carrie cảm thấy bị kích thích về việc đi nghỉ ở suối nước khoáng. Khi cô đã quyết định đi, cô gọi Avery, xin cô đến với mình ở Utopia một tuần. Cô biết Avery đã dùng một phần thời gian nghỉ hè để kèm các cô cậu vị thành niên ở D.C., và Carrie cố lôi cô về với gia đình một thời gian bằng thế. Carrie cảm thấy tin rằng thế nào Avery cũng đến ít ra là vài ngày, nhưng cô sợ nếu Avery biết số tiền dì Carrie phải trả ở đấy quá lớn, có thể cô gái e ngại mà không đến. Carrie không hề lo ngại gì về việc trả phí tổn cho Avery. Carrie có thể làm bất cứ cái gì cho cháu, tất cả mọi thứ. Có lẽ vì Avery không bao giờ yêu cầu cô làm gì hết. Carrie không hiểu làm sao cô cháu gái có thể sống nổi với đồng lương ít ỏi mà cô gái đã làm ra, và mặc dù mỗi lần cô nói chuyện với cháu, cô đều đề nghị cho tiền, nhưng Avery luôn luôn từ chối. Avery làm việc có tiền rồi, hay cô ta đã nói như thế.

Avery làm cho cô yên tâm, luôn luôn cô tin rằng cháu cô sẽ không để cho cô bị bơ vơ ở Utopia mà đi làm việc khác.

Thế nào Avery cũng cười khi nghe chuyện Carrie định đăng ký hẹn giờ để hút mỡ. Cô cười khi nghĩ đến chuyện cháu cô thế nào cũng bàn bạc việc này. Avery cũng sẽ lắc đầu khi thấy số áo quần đi tập thể dục của cô. Tất cả áo quần đều giống nhau và có nhãn của nhà tạo mẫu. Ôi, phải, thế nào Avery cũng tròn xoe mắt, rồi thuyết giảng bài giảng cô ta thích nhất về sức khỏe và đời sống.

Lạy Chúa, cô nhớ cô cháu quá trời.

- Em cười cái gì đấy, cưng? -- Tony hỏi.

Trở lại với thực tế trước mắt, cô nhận ra cả chồng lẫn vị cố vấn hôn nhân của họ đang nhìn cô. Cô nhún vai để che giấu sự bối rối.

- Tôi đang nghĩ đến những chuyện tôi cần phải suy nghĩ. -- Trước hoàn cảnh bối rối hiện tại, cô chỉ đáp được một câu vô nghĩa như thế thôi.

Tiến sĩ ngu hài lòng ra mặt, ông ta bèn dẹp chuyện tự ái sang một bên. Ông gật đầu đồng ý rồi đứng dậy, báo hiệu buổi giảng hòa thế là xong.

Khi hai vợ chồng ra xe, Tony cúi người nói với cô:

- Thật em không cần anh lái xe ra phi trường với em không?

- Thật.

- Em nhớ mang theo giấy giữ chỗ ở khách sạn chưa?

- Rồi. -- Cô nhích ra khỏi chồng khi người tài xế mở cửa sau xe cho cô. -- Em vẫn chưa nhận được tin gì của Avery, em đã để lại cho nó ba tin nhắn. Em hy vọng nói chuyện với nó trước khi rời L.A.

- Chắc em biết cô ấy rất bận việc. Có lẽ cô ta không có thì giờ để gọi em đâu.

- Nhưng nếu trong lúc em đi rồi mà xảy ra chuyện gì khẩn cấp thì sao?

- Thì chắc cô ấy sẽ gọi cho anh hay gọi đến điện thoại di động của em.

- Em không muốn nó đi kèm con nít. Công việc này quá nặng nhọc cho nó. Nó ...

- Nếu cô ấy không thích thì chắc cổ đã không làm, -- Anh ta nói. -- Em đừng lo lắng làm gì. Bây giờ Avery lớn rồi.

- Khi về nhà nhớ kiểm tra thư điện tử cho em, -- Cô nói. -- Có lẽ nó đã nhắn tin cho em.

- Ừ, anh sẽ kiểm tra và gọi báo cho em biết.

- Phiên tòa sẽ mở vào ngày 16. Em không biết Avery đã nhận giấy báo chưa. Em đã có ...

- Dĩ nhiên cô ấy biết rồi. Tại sao em lo chuyện đó như thế?

- Em không thể vắng mặt vào buổi ấy. -- Cô đáp nhanh. -- Em luôn luôn đi với Avery. Cả hai chúng tôi sẽ nói trước khi chánh án quyết định.

- Cưng ơi, em sẽ không vắng mặt trong phiên tòa ấy đâu, và Avery cũng không. Lạy Chúa, còn một tháng nữa mà. Phiên tòa trước đã có em thì phiên tòa này cũng sẽ có em. Bây giờ cố gắng thư giãn. Anh muốn em vui chơi thỏa thích.

Cô gật đầu.

- Vâng, được rồi.

Giọng cô nghe không được thành thật. Anh ta cau mày, nói:

- Em căng thẳng vì em chưa bao giờ đi chơi xa với thời gian lâu như thế này. Đây chỉ là sự bối rối trong giây phút chót.

Carrie lại gật đầu, rồi cô bước vào xe, nhưng Tony nắm hai vai cô, hôn cô.

- Anh yêu em. -- Anh ta thì thào nói. -- Anh luôn luôn yêu em. Ngay từ khi chúng ta mới gặp nhau. Anh muốn cuộc hôn nhân tốt đẹp trở lại.

- Vâng, em biết. -- Cô đáp, giọng xua đuổi.

Ngay khi xe vừa chạy, Carrie đã đưa tay lấy máy tính xách tay. Cô vừa bật máy thì điện thoại di động reo. Cứ nghĩ là Tony gọi để nhắc lại về chuyện hôn nhân, cô gắt gỏng trả lời.

- Chuyện gì nữa đấy?

- Đoán chuyện gì? -- Avery nói.

- Chào cưng. Dì tưởng Tony gọi. Cháu nghỉ hè có vui không?

- Chưa nghỉ. -- Cô trả lời. -- Cháu vừa làm xong công việc ở văn phòng. Cách đây hai hôm cháu đã họp với thủ trưởng mới một buổi họp rất quan trọng, và cháu rất mong muốn kể cho dì nghe việc cháu giúp họ giải quyết vụ này. Ta cùng ăn bữa tối hơi trễ tại Aspen chứ?

Carrie thét lên:

- Cháu đến với dì phải không? Có phải vì dì càu nhàu, dọa dẫm mà cháu đến không?

- Nếu cháu nói phải, thì chắc dì quá bậy rồi. Lần này vì cháu thấy có lỗi, dì Carrie à, nhưng dì đừng nghĩ ...

- Việc cháu định dẫn mấy đứa trẻ đi chơi ở Washington ra sao?

- Phải hoãn lại thôi.

- A. Vậy là dì thắng không có đối thủ.

- Dì có muốn cháu đến hay không?

- Dĩ nhiên dì muốn cháu đến. Dì sẽ gọi đến Utopia báo cho họ biết ngay bây giờ. Cháu đã có máy bay chưa?

- Cháu đang nhìn vào màn hình máy tính đây. Cháu có thể có chuyến bay nối ở Denver, nhưng sẽ không có sớm được. -- Avery đáp.

- Dì hồi hộp quá. Chúng ta sẽ cùng vui chơi với nhau. Báo ngay cho dì biết giờ đến của cháu. Khi nào đã mua được vé máy bay, hãy gọi lại cho dì. Hẹn sẽ gặp cháu, Avery. Thương cháu.

Carrie cảm thấy lên tinh thần. Cô tắt máy; rồi gọi đến Utopia. Sau đó, cô làm việc. Cô ghi chép các công việc cho đến khi xe đậu lại tại phi trường. Công việc an ninh phi trường tiến hành chậm như rùa. Carrie chuyện quai cái xách từ vai này sang vai kia, lấy cái máy ghi âm nhỏ trong xách rồi đọc lời dặn dò công việc cho nhân viên trong văn phòng. Khi máy bay cất cánh, cô đã ngồi êm ái trong ghế hạng nhất với ly Chardonnay ướp lạnh, cô mở máy tính xách tay ra và làm việc lại.

Tư tưởng cô lại quay về với Avery. Cô định gọi lại để hỏi chuyến bay của Avery sẽ bay lúc mấy giờ. Cô đưa tay lấy cái máy điện thoại móc ở nơi chỗ dựa tay của ghế ngồi, đoạn cô đổi ý. Tốt hơn là nên đợi. Nếu cô dùng điện thoại của máy bay, cô phải hét thật to mới nghe được, vì tiếng động cơ nổ ầm ầm và vì sóng bị nhiễu, rồi hành khách quanh cô sẽ nghe hết từng lời cô nói.

Đến Aspen, vừa ra khỏi máy bay, cô liền đi ra khỏi dòng hành khách và ngồi xuống lục tìm máy điện thoại di động trong cái túi xách đeo vai. Cô lôi hết các thứ trong xách ra, khi ấy mới nhớ cô đã nhét máy điện thoại trong ví. Không có ai thiếu ngăn nắp như cô, cô nghĩ, vừa kéo dây kéo đóng túi xách lại. Bỗng cô ngước mắt nhìn lên, thấy một người đàn ông cầm cái biển có tên cô. Cô nghĩ: anh tài xế xe hơi. Anh ta mặc bộ côm lê màu xanh đậm. Trông anh ta rất lịch sự, đẹp trai, hình ảnh trẻ hơn của Sean Connery. Cô vội đứng dậy, vừa nhét máy điện thoại vào túi áo gió. Sửa lại cổ áo sơ mi cho ngay ngắn, cô nói lớn:

- Tôi là Carolyn Salvetti.

Anh ta cười rất có duyên. -- Chào bà Salvetti. -- Anh ta nói giọng Anh rất ngọt, cái biển tên găm trên ve áo ghi: "Ông M. Edwards".

- Anh làm ở Utopia à? ... Ở suối nước khoáng à? -- Cô hỏi.

- Vâng, phải. -- Anh ta đáp. -- Bà có giấy giữ chỗ trước đấy chứ?

Cô đưa tay lấy cái xách du lịch.

- Có đây.

- Ồ, tôi khỏi cần xem, bà Salvetti. Tôi chỉ muốn biết bà có đem theo giấy tờ không thôi. Chúng ta đi lấy hành lý của bà nhé?

Carrie cảm thấy kỳ cục, chân mang giày cao gót có quai hậu hiệu Manolo Blahnik mà vừa đi vừa chạy cho kịp người đến đón chân dài. Một lần cô trược chân, nếu anh ta không nắm tay cô giữ lại, thì chắc cô đã té úp mặt xuống đất. Cô đã nghĩ đến chuyện thay giày trước khi lên máy bay, nhưng rồi vùi đầu vào công việc khiến cô quên mất.

Họ đi qua một buồng điện thoại, nhắc đến cô nhớ việc cô vẫn chưa biết tuyến bay của Avery. Mẹ kiếp, cô đã dặn cô ta gọi báo cho cô biết ngay khi mua được vé. Carrie biết chuyện gì đã xảy ra. Avery rất bề bộn công việc, cô ta phải tranh thủ từng giây từng phút để làm cho xong.

Có lẽ bây giờ quá trễ rồi, không thể gọi cô ta ở nơi làm việc hay ở nhà được. Có thể hiện cô ta đang ở tại phi trường hay có lẽ đang ở trên máy bay. Thế nhưng, Carrie vẫn muốn gọi thử. Có thể khi Avery đến Denver, cô ta sẽ kiểm tra các tin nhắn trên máy điện thoại. Phải, khi họ đến nơi lấy hành lý, Carrie sẽ gọi.

- Có khách nào khác nữa sẽ cùng đi với chúng ta đến suối nước khoáng không? -- Cô hỏi.

- Có. -- Anh ta đáp. -- Có hai khách nữa. Họ đang đợi ở trong phòng khách. Khi tôi lấy hành lý của bà xong, chúng ta sẽ đi.

- Có phải anh được bố trí đón khách chiều nay và tối nay không?

- Không, đây là chuyến cuối cùng của tôi. Tại sao bà hỏi thế?

- Cháu gái tôi, Avery Delaney, sẽ đến với tôi tại suối nước khoáng.

Câu nói của bà khiến cho gã quá ngạc nhiên đến nỗi gã dừng lại ở giữa hành lang.

- Bà đợi cô Delaney đến với bà à?

Tôi không vừa nói như thế sao? Cô đáp.

- Phải, nhưng cô ấy đáp máy bay đi từ D.C. Nếu anh không được bố trí để đón nó, thì chắc ban điều hành nhà nghỉ ở suối nước khoáng cử người khác đến đón.

Họ đi tiếp.

- Phải, chắc thế. -- Gã nói, giọng thờ ơ, có vẻ như gã đang bận suy tính việc gì.

- Tôi không có tin tức gì về chuyến bay của Avery, nhưng chắc cô ấy có gọi điện thoại đến nhà nghỉ, báo cho họ biết để họ cử người đến đón. Anh có thể gọi đến Utopia để hỏi cho biết, được không? Nếu chúng ta đợi được nó thì sẽ rất tốt. Tôi biết đích xác nó đi qua đường Denver.

- Tôi rất sung sướng được gọi đến nhà nghỉ. -- Anh ta nói. Gã đưa mắt nhìn quanh rồi gật đầu chỉ về phía hàng ghế ngồi còn trống ở trước cánh cổng vắng vẻ. -- Tại sao bà không đến đây ngồi nghỉ?

Khi gã để các xách bên chân Carrie, cô liền hỏi:

- Chữ "M" là tên gì thế?

- Xin lỗi?

- Tên của anh. Ô. M. Edwards. Chữ M là tên gì?

Gã không có lý do để nói láo.

- Monk. Chữ "M" là chữ đầu của tên Monk (thầy tu).

- Tên khác người, thú vị quá nhỉ.

- Tôi thích tất cả khách hàng đều gọi tôi là ông Edwards.

Bướng bỉnh, kiêu ngạo, cô nghĩ.

- Phải, dĩ nhiên.

- Xin bà tha lỗi. -- Gã đi đến cửa sổ, lấy điện thoại di động ra. Carrie nắm cái xách, đi theo. Cô muốn nhờ gã hỏi xem ở văn phòng khu suối nước khoáng có tin nhắn nào đợi cô không.

Khi cô đi đến, gã đứng quay lưng về phía cô. Cô vỗ tay lên vai gã:

- Ông Edwards.

Gã giật mình quay lui.

- Đợi một lát. -- Gã nói vào máy điện thoại. Rồi hỏi cô. -- Bà cần gì?

- Anh hỏi cô tiếp tân giúp tôi xem thử tôi có tin nhắn không, được không?

Gã lặp lại câu hỏi, đợi một lát, rồi lắc đầu. Carrie cảm thấy khùng mới đứng đấy, nên cô đi lui, ngồi xuống ghế.

Gã không nói điện thoại lâu, khi gã đến bên cô, gã lấy cái xách của cô lên, xin lỗi vì chậm trễ.

- Có người khác được bố trí để đi đón cô Delaney.

- Chúng ta không đợi được à?

- Xin lỗi. Có phải bà nói gì đấy không? -- Gã hỏi.

Thái độ lơ đãng của gã làm cô bực tức.

- Tôi hỏi chúng ta đợi cháu gái tôi có được không?

- Tôi nghĩ không được. -- Gã đáp. -- Hai người khách kia đang đợi bà. Tôi không nói cho họ biết phải đợi lâu. Tôi mong bà thông cảm.

- Vâng, đương nhiên.

- Cám ơn bà. Chắc chắn những người kia sẽ đánh giá cao sự hợp tác của bà.

- Họ là ai thế? -- Cô hỏi một cách thẳng thừng.

- Xin lỗi bà nói gì?

- Thưa ông Edwards, tôi hỏi những người khác kia là ai?

- Bà Trapp ở Cleveland, và bà thẩm phán Collins đi máy bay từ Miami đến.

Carrie chưa nghe tên họ bao giờ, cô tự hỏi không biết họ có danh tiếng gì không. Cô hy vọng là những người có danh tiếng. Cô sẽ tranh thủ làm quen với họ thân mật chừng nào hay chừng ấy. Có lẽ bà thẩm phán là người nổi tiếng, thường lên tivi. Làm quen với bà ta không lợi hay sao?

Cuối cùng họ đến khu vực nhận hành lý, nhập vào đám hành khách chen lấn nhau đến phía trước.

- Xe chạy từ đấy đến khu suối nước khoáng mất bao lâu?

- Không lâu đâu. -- Gã đáp. -- Thế nhưng tối nay quí vị không đi thẳng đến Utopia. -- Gã nói thêm. -- Vì có ống dẫn nước chính bị vỡ, nên người ta phải chữa lại đến nửa đêm mới xong. Cho nên quí vị đến ở tại khách sạn rất bất tiện, ông giám đốc đã thu xếp để bà, Bà Trapp và thẩm phán Collins đến nghỉ đêm tại một khu nhà riêng.

Carrie định chống lại quyết định này, vì làm thế sẽ rất bất tiện. Cô phải soạn đồ ra rồi thu xếp đồ vào va li lại, nhưng bỗng Edwards nói bằng thái độ tự nhiên, thoải mái:

- Tôi tin ông Cruise và một người bạn cùng đi với những người khách cuối cùng.

Cô mở to mắt.

- Tom Cruise phải không?

- Phải. Rồi sáng mai, -- Gã nói tiếp một cách trơn tru. -- Bà sẽ được đưa đến khu suối nước khoáng.

- Cháu tôi cũng sẽ đến ở tại nhà riêng à?

- Tôi không biết chắc. Nếu ống nước sửa chữa xong khi máy bay của cô ấy đến, thì chắc cổ được đưa thẳng đến khu suối nước khoáng luôn.

- Khu nhà riêng có gần Aspen không?

- Nằm ngay phía ngoài, trên núi cao trong khu vực gọi là Đất Giữa Hồ. Ở đấy đẹp tuyệt. Mùa này ở đấy đêm thì lạnh còn ngày thì có nắng ấm. Thời tiết rất tuyệt để leo núi và cắm trại.

- Tôi không phải loại người sống ngoài trời, nhưng trông anh có vẻ là loại người ấy. -- Cô nói, nhận thấy đôi vai của gã vạm vỡ, bắp thịt cuồn cuộn căng phồng dưới bộ áo quần mà nhìn vào là người ta biết do thợ đo cắt. Độ này người ta trả lương cho tài xế nhiều thế ư?

Họ đứng bên nhau đến 10 phút mới thấy hành lý chạy đến trên băng tải.

- Cái xách kia là của tôi. -- Cô nói, chỉ cái xách Gucci màu đen căng phồng đang chạy đến. -- Cẩn thận. -- Cô dặn. -- Nặng đấy.

- Chỉ có cái xách này thôi à?

Chắc gã nói đùa.

- Không, còn ba cái nữa.

- Bà sẽ ở lại suối nước khoáng trong bao lâu? -- Gã hỏi.

- Hai tuần. Anh làm việc ở đây bao lâu rồi? -- Cô hỏi, cô muốn nói chuyện gẫu giết thì giờ trong lúc chờ đợi số hành lý còn lại. Nếu họ làm mất của cô một cái xách thôi, cô sẽ gặp khó khăn, vì số pin dùng cho máy tính và điện thoại di động kia đều tộng hết vào xách.

- Một năm. -- Gã đáp.

- Tuyệt nhỉ. -- Cô nói, không mấy quan tâm. Mấy va li kia mất tiêu đâu hết rồi nhỉ? Cô cảm thấy bồn chồn lo lắng, hít vào một hơi thật dài. Hãy thư giãn, -- cô tự hỏi, -- mình đi nghỉ hè kia mà.

Cô nhìn quanh phòng lấy hành lý, thấy phòng vệ sinh nên nói:

- Trước khi chúng ta đi, tôi muốn rửa mặt bằng nước lạnh cho tỉnh táo ...

- Nếu bà đợi được cho đến khi chúng ta đến ...

- Tôi không thể đợi được. -- Cô cắt ngang lời gã. Cô đưa cho gã cái xách đeo trên vai nhưng giữ cái ví. -- Đừng để mất cái xách ấy nhé. Trong xách có máy tính xách tay và điện thoại di động.

Rồi cô đi nhanh vào phòng vệ sinh. Khi cô rửa tay, cô nhớ cô để điện thoại di động trong túi áo khoác, cô bèn quyết định gọi cho Avery ngay.

Carrie đi đến buồng vệ sinh cuối cùng để không ai nghe cô gọi điện thoại, cô cầu sao sóng không bị cản trở. Cô bấm máy lia lịa. Cô gọi đến nhà ở của Avery trước hết, nghe máy nhắn tin trả lời, cô nói rằng ngay khi Avery nhận được tin nhắn này thì trả lời ngay cho cô biết. Rồi cô đoán lẽ Avery đã rời nhà để đến phi trường, Carrie lại bấm số. Số điện thoại gỏi thẳng đến bàn làm việc của Avery. Máy nhắn tin trả lời khi chuông reo hồi thứ hai.

- Mẹ kiếp, Avery, đáng ra cháu phải điện thoại báo cho dì về chuyến vé máy bay của cháu chứ, nhưng cháu quên phải không? Dì hy vọng bây giờ cháu đang ngồi trên máy bay và sẽ kiểm tra các tin nhắn ở Denver. Dì cứ sợ cháu sẽ không đến với dì. Dì biết công việc của cháu đã níu chân cháu lại. Nếu dì phát hiện ra việc cháu lỡ máy bay vì bận tham dự các buổi họp quái đản ấy, dì sẽ cười cháu cả tháng đấy. Thật vậy Avery à, dì cười cháu khi dì nghĩ đến công việc cháu đang làm với đồng lương cháu kiếm ra, và cả ngày chúi đầu làm việc trong căn phòng không có cửa sổ để phân tích những cái mà chỉ trời mới biết. Thật là phí phạm tài năng của cháu. Chắc chắn cháu nhận thấy như thế. Dì ước chi cháu để cho dì giúp cháu đổi nghề.

Carrie nhận ra điều đó cô nói thật buồn cười và cô cười.

- Cháu hãy nghe dì nói tiếp đây. Cháu nghe hết những điều dì vừa nói rồi chứ? Nhưng việc dì gọi cho cháu là dì muốn báo cho cháu biết hiện dì đã đến Aspen rồi. Dì muốn đợi cháu để chúng ta cùng đến suối nước khoáng một thể, nhưng hiện có những người khách khác nữa ở đấy, và việc bắt họ ngồi đợi là điều rất bất tiện cho họ. Đêm nay dì không đến suối nước khoáng ngay, khách sạn bị hư hỏng ống dẫn nước, người đến đón dì cho biết, chắc khi cháu đến đường ống dẫn nước đã chữa xong rồi. Hiện dì đã cảm thấy buồn ngủ. Hai người đàn bà kia và dì đêm nay sẽ nghỉ đêm tại ngôi nhà riêng trong núi rất sang trọng. Dì đã quên tên hai người đàn bà cùng đi, nhưng có một bà là thẩm phán. Dì tin bà ta có tiếng tăm. Thôi hẹn mai gặp cháu. Dì sẽ kiểm tra tin tức ở Utopia để biết cháu đến chưa.

Carrie cảm thấy lòng dâng lên đợt cảm kích khác.

- Ngôi nhà riêng có tên là Đất Giữa Hồ. Sao có chuyện kỳ lạ như thế này nhỉ? Tom Cruise là người khách cuối cùng của họ, cho nên chắc cháu biết ở đấy hẳn quá đẹp như thế nào rồi. Nghĩa là ông ta đứng đầu danh sách loại A, và chắc chắn là họ không để cho ông ta ở một nơi tồi tàn. Dì phải cúp máy trước khi người đi đón vào phòng vệ sinh nữ để tìm dì. Dì rất nôn nóng muốn gặp cháu. Chúng ta sẽ cùng vui chơi thỏa thích. Úi dào, dì nghe người đón dì đang gọi tên dì. Suối nước khoáng phái đến một anh chàng to con để xách va li cho dì. Anh ta là loại ngạo mạn, khinh người, và nói giọng Anh ngọt xớt. À ôi, anh ta hấp dẫn lắm. Tên hắn là Monk Edwards, nhưng cháu biết không, hắn không có vẻ gì là thầy tu như dì thường thấy đâu. Có lẽ họ sẽ gọi một anh chàng to con khách để đón cháu. Chào cưng. Hẹn gặp lại.

Kẻ Phá Đám -- Chương 1

KẺ PHÁ ĐÁM
Tác giả: Julie Garwood
Chuyễn ngữ: Văn Hòa - Kim Thùy



CHƯƠNG 1



Sự chờ đợi làm Avery phát điên. Cô ngồi trong cái buồn nhỏ vuông vức, lưng dựa vào tường, chân này chéo lên chân kia, một tay gõ mấy đầu ngón tay lên mặt bàn, tay kia nắm bao nước đá để lên đầu gối bị thương. Tại sao lâu như thế này nhỉ? Tại sao Andrews không gọi? – Cô nhìn chăm chăm vào máy điện thoại, muốn nó reo lên. Không có gì. Không có tiếng động. Quay chiếc ghế xoay, cô nhìn chiếc đồng hồ hiện số lần thứ một trăm. Bây giờ là 10:05, giống như cách đây 10 giây. Lạy Chúa, đáng ra bây giờ cô đã nghe điện thoại reo rồi mới phải chứ.

Mel Gibson đứng dậy, dựa vào bức vách ngăn đôi giữa buồng làm việc của anh với buồng của Avery, nhìn cô với ánh mắt đầy thiện cảm. Tên này là tên thật của anh, tên móc nôi, nhưng Mel cho rằng cái tên này xưa rồi, cái tên vô danh, không ai trong lực lượng cảnh sát đếm xỉa đến. Thế nhưng anh cũng không thích cái tên do cơ quan đặt cho anh là Brad Piit.

- Chào, Brad, - Avery nói. Cô và các đồng đội khác vẫn dùng cái tên mới này cho quen. Tuần trước đồng đội gọi anh bằng tên "George Clooney", và cái tên này gặp phản ứng như cái tên "Brad" bây giờ, anh quắc mắt và nhắc rằng tên anh không phải là "George", không phải "Brad", và không phải "Mel", mà là "Melvin".

- Đáng ra bây giờ cô đã có tin rồi mới phải, -- Anh nói.

Avery quyết không để cho anh ta trêu chọc. Anh ta cao, trông có vẻ lanh lợi, yết hầu nhô ra thật lớn, và có thói quen dùng ngón tay thứ ba đẩy chiếc kính gọng thép lên trên cái sống mũi thẵng. Margo, một đồng đội khác nói với Avery rằng Mel làm thế là có ý đồ. Đấy là cách anh để cho ba người khác trong tổ biết rằng anh ta cảm thấy mình quan trọng hơn các tổ viên khác.

Avery không đồng ý như thế. Mel thường không làm điều gì không chính đáng. Anh sống theo quy cách mà anh tin là hình ảnh điển hình của người thuộc cơ quan FBI. Anh tận tâm, có trách nhiệm, năng nổ, có tham vọng, và…. Hơi quan trọng hóa công việc một chút. Mặc dù anh mới 27 tuổi, nhưng áo quần anh mặc giống như các nhân viên mật vụ mặc vào thời thập niên 50 của thế kỷ XX. Côm lê đen, sơ mi trắng tay dài có cổ áo cài khuy, cà vạt đen nhỏ bản, giày đen mũi nhọn đánh láng bóng, và đầu tóc ngắn mà Avery biết cứ hai tuần là anh cắt một lần.

Anh có thói quen kỳ lạ là hay trích dẫn vài chi tiết trong tập Chuyện Của Cơ Quan FBI, truyện đã được chuyển thành phim với Jimmy Stewart thủ vai chính. Anh ta nhanh trí kinh khủng và có tinh thần đồng đội. Anh chỉ cần tỏ ra mình xuất sắc hơn một tí là được. Thế thôi.

- Cô không nghĩ bây giờ đáng ra cô đã nhận được tin tức rồi à? – Anh hỏi, giọng lo âu như tâm trạng của cô.

- Còn sớm, -- Cô đáp, nhưng chưa đầy năm phút sau, cô nói tiếp, - anh nói đúng. Đáng ra bây giờ đã có tin.

- Không – Anh chỉnh lại. – Tôi nói đáng ra "cô" đã nhận tin. Lou, Margo và tôi không có dính líu gì đến quyết định nhờ cậy đội SWAT hết.

Ôi, lạy Chúa, cô đã nghĩ như thế nào nhỉ?

- Nói cách khác, anh không muốn bị khiển trách nếu tôi sai lầm phải không?

- Không khiển trách đâu, -- Anh nói. – Mà bị sa thải. Tôi cần công việc này. Tôi đã sắp trở thành nhân viên mật vụ chính thức rồi. Theo nhãn quan của tôi.

- Tôi biết, Mel.

- Melvin, -- Anh chỉnh lại ngay tức khắc. – Và lợi thế sẽ lớn.

Margo đứng dậy để có thể tham gia câu chuyện.

- Nhưng tiền lương bèo.

Mel nhún vai nói:

- Môi trường làm việc cũng thế. Nhưng…. Cơ quan FBI kia mà.

- Môi trường làm việc của chúng ta có sao đâu? Lou vừa đứng dậy vừa hỏi. Buồng làm việc của anh nằm bên trái buồng của Avery. Mel ngay trước mặt cô, còn buồng của Margo nằm kế bên buồng của Lou. Phòng làm việc của họ -- Họ thường âu yếm gọi là hang chuột. – nằm phía sau phòng cơ khí với tiếng máy đun nước nóng và máy nén kêu rầm rầm.

- Tôi thấy môi trường làm việc có gì không ổn đâu? – Anh hỏi lại, giọng có vẻ bối rối.

Lou kém năng lực, nhưng dễ thương, Avery nghĩ thế. Bất cứ khi nào cô nhìn anh ta, cô lại nhớ đến cảnh bừa bãi trong bức biếm họa cũ có nhan đề "Nghèo xơ xác". Lou lúc nào cũng luộm thuộm. Anh ta thông minh thật đấy, nhưng không mở miệng nói được câu gì hay ho, cái áo sơ mi tay cụt thường thường có ít ra là một vết bẩn. Sáng nay có hai vết. Một vết do nước mứt nơi bánh cam vòng của Margo mang đến. Vết này có màu đỏ lớn nằm ngang trên vết mực đen do cây bút gây ra trên túi áo sơ mi trắng.

Lou nhét đuôi áo vào quần – sáng nay là lần thứ ba anh nhét áo vào quần – rồi nói:

- Tôi thích làm việc dưới này. Rất thoải mái.

- Chúng ta làm việc trong một góc tầng hầm không có cửa sổ - Margo đáp lại.

- Thì có sao đâu? – Lou hỏi. – Chúng ta làm ở đâu cũng không giảm bớt tầm quan trọng. Chúng ta là thành phần của một tổ công tác.

- Tôi muốn làm thành phần của tổ công tác nào có cửa sổ. – Margo nói.

- Không thể có đủ thứ được. Này, Avery, đầu gối ra sao rồi? – Bỗng anh hỏi, đổi đề tài.

Cô thận trọng giở bao nước đá lên, nhìn chỗ bị thương.

- Bớt sưng rồi.

- Chuuyện xảy ra như thế nào? – Mel hỏi. Anh là người duy nhất không nghe tai nạn xảy ra.

Margo vuốt mái tóc quăn đen, ngắn và đáp:

- Một bà già suýt chút nữa giết chết cô ấy.

- Với một chiếc Cadillac, - Lou nói. -- Tai nạn xảy ra trong bãi đổ xe. Rõ ràng bà già không nhìn thấy cô ấy. Chắc phải rút bớt tuổi cho phép lái xe xuống mới được.

- Bà ta đã tông vào cô à?

- Không, -- Avery đáp. -- Khi xe bà phóng quành góc đường, tôi chạy tránh được xe bà ta, nhưng lại đụng phải đầu một chiếc Mercedes khác, đầu gối va vào càng xe. Tôi nhận ra chiếc Cadillac là của bà Speigel, bà ở trong tòa nhà chung cư của tôi. Tôi nghĩ bà đã 90 tuổi. Bà không được lái xe, nhưng thỉnh thoảng tôi thấy bà lấy xe ra để đi mua đồ lặt vặt.

- Bà ta có dừng lại không?- Mel hỏi.

Cô lắc đầu.

- Tôi nghĩ chắc bà ta không tin là có tôi ở đấy. Bà ta phóng xe thật nhanh đến nổi tôi mừng là không có ai trên đường hết.

- Lou, anh nói đúng đấy, - Margo nói. Cô ta biến mất sau bức vách ngăn buồng làm việc của cô, cúi xuống đẩy cái thùng đựng giấy đánh máy đến góc buồng, rồi đứng lên trên thùng. Bỗng cô cao bằng Mel. -- Phải giới hạn tuổi cho phép lái xe. Avery nói bà già quá nhỏ, đến nổi cô ấy không thấy được đầu bà ta khi nhìn từ phía sau xe. Chỉ thấy được một đám tóc bạc.

- Khi chúng ta già, thân thể chúng ta teo lại, -- Mel nói. – Margo, nghĩ mà xem, khi cô 90 tuổi, chắc không ai thấy cô.

Margo, người nhỏ nhắn, cao 1m55, không phật ý đáp:

- Tôi sẽ mang giầy cao gót.

Điện thoại reo, cắt đứt câu chuyện. Avery vùng đứng dậy, xem đồng hồ: 10 giờ 14 phút.

- Đúng giờ, -- Cô thì thào nói khi điện thoại reo lần thứ hai.

- Trả lời đi,- Margo lo lắng nói.

Avery nhấc máy khi máy reo hồi thứ ba. Cô đáp:

- Avery Delaney đây.

- Ông Carter muốn gặp cô tại văn phòng của ông lúc 10 giờ 30, cô Delaney.

Cô nhận ra giọng nói. Cô thư ký của Carter có giọng nói của người ở bang Maine, cô đáp:

- Tôi sẽ đến bây giờ.

Khi Avery gác máy, ba cặp mắt đều nhìn cô.

- Ôi, trời đất! -- Cô nói nhỏ.

- Sao? -- Margo hỏi, cô là người thiếu kiên nhẫn nhất.

- Carter muốn gặp tôi.

- Ơ ồ. Chuyện không hay rồi. – Mel nói, rồi, như thể anh nhận ra anh đã nói cái gì đáng ra không nên nói, anh nói thêm. – Cô muốn chúng tôi cùng đi với cô không?

- Anh muốn làm thế à?- Avery hỏi, ngạc nhiên khi nghe anh ta đề nghị.

- Tôi không muốn, nhưng phải đi.

- Thôi được rồi. Tôi hứng đạn một mình được rồi.

- Tôi nghĩ chúng ta sẽ cùng đi, -- Margo nói. -- Nếu đuổi thì đuổi cả đám. Tôi muốn nói chúng ta cùng đồng lòng với nhau, được không?

- Được, -- Avery đồng ý – Nhưng ba bạn đã cố nói với tôi đừng đến gặp Andrews kia mà. Bạn nhớ chứ? Tôi là người duy nhất phạm lỗi. – Cô đứng dậy, để bao nước đá lên đỉnh tủ hồ sơ, lấy áo khoác.

- Chuyện không hay rồi, -- Mel lặp lại. – Họ phá hỏng quy tắc chỉ huy. Lôi thủ trưởng của thủ trưởng vào việc này, chắc là chuyện chẳng lành. Carter vừa được đề bạt làm chỉ huy các chiến dịch nội hạt.

- Như thế tức là bây giờ ông ta là thủ trưởng của hai tầng thủ trưởng, -- Margo nói.

- Không biết có đầy đủ các thủ trưởng ở đó không – Lou nói.

- Chắc có, Avery nói nhỏ. – Có lẽ cả ba thủ trưởng đều có mặt để sa thải tôi. – Cô cài nút áo khoác rồi hỏi: -- Trông tôi như thế nào?

- Giống như người muốn hại cô, -- Mel nói.

- Bít tất của cô rách hết, -- Margo nói.

- Tôi biết. Tôi tưởng tôi có một đôi khác trong hộc bàn, nhưng té ra không.

- Tôi có thừa một đôi đây.

- Cám ơn, Margo, nhưng cô nhỏ con, mà tôi thì lớn. Mel, Lou, quay lưng lại hay ngồi xuống.

Khi họ quay lưng, cô đưa tay xuống dưới váy, kéo bít tất dài ra rồi để hai gót chân lên giày.

Cô rất tiếc là hôm nay cô mặc váy. Thường thường cô mặc quần và áo sơ mi, nhưng vì hôm nay cô đi ăn tiệc, nên phải diện bộ đồ Averymani của dì Carrie tặng cách đây hai năm. Bộ đồ có màu nâu đẹp tuyệt vời, mặc với chiếc áo bó không tay có cổ hình trái tim cũng cùng màu. Chiếc váy trước có xẻ hai bên trông rất khiếm nhã, nhưng Avery đã khâu lại cho kín đáo. Bộ đồ trông rất tuyệt. Điều đáng làm cho cô ghi nhớ là cô mặc bộ đồ đẹp đúng vào hôm cô bị sa thải.

- Bắt này, -- Margo nói vừa ném cái gói bít tất còn mới cho Avery. – Đây là loại mỗi kích cõ đều vừa. Chúng co giãn rất tốt. Cô phải mang bít tất. Chắc cô biết luật về áo quần rồi.

Avery đọc cái nhãn, nó cho biết vừa với mọi kích cỡ.

- Cám ơn, cô nói và ngồi xuống lại. Hai chân cô dài, khi kéo chiếc bít tất lên tận hông cô cứ sợ rách, nhưng đôi tất hình như vừa vặn sít sao.

- Cô sẽ đến trễ đấy, - Mel nói khi cô đứng lên sữa lại chiếc váy cho ngay ngắn. Tại sao cô không nhận thấy cái váy ngắn như thế này nhỉ? Gấu của váy chưa chạm đến đầu gối.

- Tôi còn bốn phút nữa. – Cô đáp. Sau khi đã tô son lại đôi môi, kẹp tóc gọn gàng sau gáy, cô xỏ chân vào giày. Đến lúc ấy cô mới nhận ra gót giày bên phải lỏng ra. Chắc khi cô vấp phải nắp chiếc xe, gót giày đã bị gãy.

Cô nghĩ bây giờ chẳng làm gì được nữa rồi. Cô hít vào, vươn vai, đi khập khiễng ra lối đi ở giữa phòng. Mỗi khi cất chân bước, cô cảm thấy đầu gối giật giật.

- Hãy chúc tôi may mắn đi!

- Avery, -- Mel nói lớn. Anh đợi cho cô quay lui mới thảy cho cô cái thẻ chứng minh kẹp nơi áo. – Có lẽ cô nên đeo cái này vào nó.

- Phải, đúng vậy. Thế nào họ cũng lấy lại trước khi đưa tôi ra khỏi cơ quan.

Margo nói với theo thật lớn:

- Này Avery, cậu đừng quên chuyện…. nếu bị sa thải, cậu khỏi cần phải lo quái gì hết mà cứ vui chơi thoải mái với dì cậu ở suối nước khoáng đẹp như mộng ấy.

- Tôi không biết có đến gặp dì tôi ở đấy không. Dì ấy vẫn tưởng tôi đang kèm các đứa bé ở D.C.

- Nhưng bây giờ chắc dì cô biết chuyện ấy đã hủy bỏ rồi, cô thế nào cũng đến đấy vui chơi, -- Margo lập luận.

- Đúng đấy, cô nên đi thôi, -- Lou nói. -- Cô có thể ở lại Utopia cả một tháng để làm bảng tóm tắt.

- Không ích gì đâu, quý vị,- Avery đáp, không nhìn lui.

Văn phòng của Carter nằm ở tầng lầu bốn của tòa nhà cao ốc. Vào ngày thường, cô sẽ đi bằng cầu thang lầu để tập thể dục nhịp điệu, nhưng bây giờ đầu gối cô quá đau và gót giày bên phải quá lung lay. Khi đến thang máy, cô mệt nhoài. Trong khi chờ đợi thang đến, cô nhẩm tính trong óc những điều cô nói khi Carter hỏi về việc cô đã làm.

Cửa thang máy mở. Cô bước vào, bỗng nghe có tiếng kêu răng rắc. Cô nhìn xuống thấy gót giày nằm kẹt giữa đường ranh của thang máy với nền nhà. Vì chỉ có một mình, nên cô kéo cao váy, cúi xuống ở bên phía chân không bị đau để lấy cái đế giày bị long ra. Chính lúc ấy cửa thang máy đống lại ngay trên đầu cô.

Buột miệng rủa, Avery nhào lui. Thang máy chuyển động, cô níu vào lan can. Khi cửa thang mở ra ở tầng một, cô lấy gót giày và đứng lên. Khi thang máy lên đến tầng bốn, trong thang có nhiều khách, cô bị lấn ra tận phía sau. Cảm thấy mình như một kẻ ngu ngốc, cô xin lỗi mọi người để ra phía trước và khập khiễng bước ra ngoài.

Khổ thay, văn phòng của Carter ở cuối cái hành lang dài. Cánh cửa kính còn cách khá xa nên cô không đọ được tên khắc trên trên nắm tay cửa bằng đồng.

Vừa đi cô vừa nghĩ: Ráng lên. Đi được nữa đường cô dừng lại xem giờ để cho cái chân đau được nghĩ một lát. Cô con một phút nữa. Cô có thể đến kịp giờ, vừa đi lại cô vừa nghĩ. Cái kẹp tóc rơi ra, nhưng cô chụp kịp trước khi nó rớt xuống nền nhà. Cô kẹp lại vào tóc và đi tiếp. Cô bỗng ước chi xe bà Speigel tông vào cô. Chắc bây giờ cô khỏi phải nghĩ ra lời giải thích, và thế nào Carter cũng gọi cô ở bệnh viện để sa thải cô qua điện thoại.

- Ráng lên, - Cô lặp lại – Lẽ nào tệ hơn nữa?

Dĩ nhiên có thể tệ hơn. Ngay khi cô kéo cánh cửa, chiếc bít tất móc vào quần lót bị sút ra, tụt xuống khi cô khập khiễng bước tới bàn cô tiếp tân, dải vải quấn quanh hông tuột xuống mông.

Người đàn bà da ngăm đen trịnh trọng mặc bộ đồ Chanel ngắn cũn cỡn có vẻ ngạc nhiên khi thấy Avery.

- Có phải cô Delaney không?

- Phải, - cô đáp.

Chị ta cười.

- Cô đến đúng giờ. Ông Carter sẽ đánh giá cao việc này. Ông ấy làm việc rất đúng giờ giấc.

Khi chị ta nhấc máy điện thoại để báo Avery đã đến, cô nghiêng người tới trước, hỏi:

- Có phòng vệ sinh nữ gần đây không?

- Ở ngoài hành lang, qua khỏi cầu thang máy, phía bên trái.

Avery nhìn ra sau suy tính. Đi dọc theo cái hành lang dài dằng dặc để tháo cái bít tất mắc dịch ra, chắc cô sẽ trễ giờ hẹn, còn nếu không, cô có thể….

Cô tiếp tân cắt đứt dòng suy nghĩ mông lung của cô:

- Ông Carter muốn gặp cô ngay bây giờ.

Cô không nhúc nhích.

- Cô có thể vào trong, - Chị ta nói.

- Vấn đề là…

- Sao?

- Sao?

Avery từ từ đứng thẳng lên. Chiếc bít tất nằm yên. Cô mỉm cười nói:

- Tôi vào trong bây giờ.

Cô quay người, thôi cười, tay vịn vòa mép bàn rồi cố bước đi như thể chiếc giày vẫn còn đế. Nếu may mắn, Carter sẽ không chú ý đến tình trạng của cô.

Cô đùa với ai đấy? Người đàn ông đã được huấn luyện để có tài quan sát.

Ông ta cao, có vẻ đạo mạo, mái tóc dày đốm bạc và chiếc cằm vuông. Khi cô đi vào, Tom Carter đứng dậy. Cô lúc lắc đi tới. Khi đến bên cái ghế trước bàn làm việc của ông, cô muốn ngồi phịch xuống, nhưng phải đợi ông cho phép.

Carter đưa tay qua bàn để bắt tay cô, và vì cô phải vươn người tới trước, nên cái bít tất không chịu nằm yên một chỗ. Cái móc bây giờ đã tuột xuống đến đầu gối. Trong cơn hoảng hốt, cô nắm tay ông, lắc thật mạnh. Khi cô nhận ra tay phải cô nắm cái gót giày thì đã quá trễ. Từ khi cô thi tốt nghiệp đến giờ, chưa bao giờ cô ra mồ hôi như thế này.

- Thưa ông, rất sung sướng được gặp ông. Thật là một vinh dự. Ông muốn gặp tôi à? Trời, ở đây nóng quá. Xin phép ông được cởi áo khoác có được không ạ?

Cô nói lan man, hình như không dừng được. Tuy nhiên lời nhận xét về nhiệt độ làm cho ông Carter chú ý. Ơn chúa, lời đồn quả không sai. Carter có bộ ổn nhiệt riêng, ông thích để nhiệt độ trong phòng dưới độ nước đông. Nhiệt độ giống như ở Alaska. Avery ngạc nhiên không thấy hơi thở của mình thở ra. Thì ra cô nín thở.

Hãy bình tĩnh, cô tự nhủ. Hít vào thật sâu đi.

Carter gật đầu với vẻ thiện cảm. Ông không chú ý đến cái gót giày rơi trên chồng hồ sơ trên bàn.

- Tôi nghĩ là trong phòng nóng, nhưng người phụ tá của tôi nói là ở đây lạnh quá. Để tôi vặn ổn áp xuống thêm một nấc nữa.

Cô không đợi ông Carter cho phép mới ngồi. Lúc ông quay lưng, cô liền lấy cái gót giày trên chồng hồ sơ đề tên cô và tên những người khác trong phòng của cô – Rồi ngồi xuống ghế lại. Chiếc bít tất bây giờ nằm một đóng quanh đầu gối. Cô cởi nhanh áo khoác, rồi vắt ở trên đùi chân.

Lát sau hai cánh tay và hai vai cô nổi gai ốc.

Hãy ráng lên cô nghĩ. Rồi sẽ ổn thôi. Khi ông ta ngồi vào sau bàn, cô sẽ từ từ tuọt chiế bít tất xuống và tháo ra. Chắc Carter sẽ không để ý đâu.

Đây là kế hoạch vĩ đại, nếu Carter tạo điêu kiện, chắc cô sẽ làm được thôi, nhưng ông ta không về ghế ngồi. Ông đi qua phía cô, rồi ngửa người ngồi lên mép bàn. Cô không thấp như Margo, nhưng cô phải ngửa đầu ra sau để nhìn vào mắt ông. Mắt ông có vẻ long lanh, cô thấy thật kỳ lạ, cô tự hỏi phải chăng ông thích thú vì sắp sa thải nhân viên. Lạy Chúa, có lẽ lời đồn đúgn mất.

- Tôi nhận thấy cô đi khập khiễng. Tại sao cô bị thương ở đầu gối thế? – Ông hỏi. Ông cúi xuống để lấy lên cái kẹp giấy bị rơi xuống nền nhà.

- Bị tai nạn, - Cô đáp, lấy cái kẹp để trên đùi. Nhìn ánh mắt ngạc nhiên của ông, cô có thể nói câu trả lời của cô không làm cho ông hài lòng.

- Một bà già… rất già, lái chiếc xe thật lớn, không thấy tôi khi tôi đi đến lấy xe tôi trong bãi đậu xe. Tôi phải nhảy đi tránh đường, nếu không bà ấy đã tông vào tôi rồi. Vì thế tôi va phải đầu một chiếc Mercedes, khiến gót giày long ra và đầu gối bị bầm. – Rồi, không để cho ông ta có thì giờ bà đến tai nạn rủi ro, cô nói tiếp. – Thực ra thì gót giày của tôi chỉ bị lỏng mà thôi. Nó bị văng ra khi cửa thang máy đógn ngay trên đầu tôi.- Ông nhìn cô đăm đăm như thể cô là con mụ điên đang nói lảm nhảm. – Thưa ông, thật là một buổi sáng không may.

- Nếu tôi là cô, chắc tôi phải chuẩn bị tinh thần, - ông Carter nói, giọng bỗng nghiêm nghị. – Tình hình chắc sẽ xấu hơn.

Hai vai cô chùng xuống. Carter đi đến ngồi vào ghế sau bàn làm việc. Cô thừa cơ hội này luồn hai tay xuống dưới áo khoác và váy, kéo bít tất xuống dưới hai chân. Công việc thật khó khăn nhưng có thể làm được, cô ngồi bình thản trên ghế, kéo cặp bít tất ra, công việc này chẳng khác gì một kỳ công. Trong khi ông mở tập hồ sơ của cô ra để đọc những lời ghi chú mà ông hay ai đó đã ghi chú về cô, thì cô nắm chiếc bít tất, vo thành một cục. Cô mang giày vào vừa lúc ông ngước mắt nhìn cô lại.

- Tôi đã nhận được cú điện thoại của Mike Adrews, -- Ông ta nói. Giọng nghiêm nghị của người có quyền sinh sát trong tay.

Cô cảm thấy ruột gan rối bời như mớ bòng bong.

- Thế à, thưa ông?

- Tôi tin là cô biết ông ta?

- Phải, thưa ông. Không rõ lắm,- cô vội nói tiếp.- Tôi tìm thấy số điện thoại của ông ấy, gọi cho ông trước khi rời khỏi văn phòng.

- Và trong cuốc điện thoại đó, cô đã thuyết phục được ông ta triển khai một đội SWAT đến Ngân hàng Quốc gia thứ Nhất ở…-- Ông ta nhìn xuống, tìm địa chỉ ở trong hồ sơ.

Cô nói nhanh địa chỉ và nói thêm.

- Chi nhánh gần tuyến đường sắt tiểu bang.

Ông ngửa người ra sau, vòng hai tay và nói:

- Cô hãy nói cho tôi biết cô biết gì về ba vụ trộm này?

Cô hít vào một hơi dài, cố thư giãn. Bây giờ cô đã ở vào tình thế được bình an, kiềm chế được mình.Vì cô đã đánh tất cả những bản báo cáo của nhân viên mật vụ vào máy tính và đã xem những cuộn băng từ của ngân hàng, nên cô biết rất rõ chi tiết và nhớ rất nhiều.

- Những tên cướp xưng là Chính Khách, - cô nói. – Có ba tên trong nhóm.

- Nói tiếp đi. -- Ông giục.

- Có ba vụ cướp trong ba tháng vừa qua. Những tên đàn ông, tất cả đều mặc áo trắng, xông vào ngân hàng thứ nhất, Ngân hàng và Quỹ Ũy thác Quốc gia thứ nhất trên đường phố Thứ Mười Hai, vào ngày 15 tháng ba, đúng ba phút sau khi ngân hàng mở cửa làm việc. – Những người đàn ông dùng súng để chế ngự nhân viên và một khách hàng, nhưng chúng không bắn. Tên đàn ông chỉ huy đã kề con dao bên cổ người bảo vệ. Khi hai tên kia chạy ra cửa thì tên chỉ huy đâm người bảo vệ, thả con dao rồi tẩu thoát. Người bảo vệ không làm gì để chọc tức tên cướp hết. Không có lý do gì để giết ông ta hết.

- Đúng, không có lý do gì hết.

- Vụ cướp thứ hai xảy ra vào ngày 13 tháng tư tại Ngân hàng Mỹ quốc ở Maryland. Người quản lý ngân hàng, một phụ nữ, đã bị giết chết trong vụ cướp này. Tên chỉ huy đi ra cửa một cách tự nhiên. Bỗng hắn quay lui bắn thẳng vào bà ta. Một lần nữa, hình như không có lý do gì, vì các nhân viên đều nghe theo lời chúng.

- Còn vụ thứ ba.

- Vụ này xảy ra vào ngày 15 tha tháng năm tại Ngân hàng và Quỹ Ũy thác Goldman ở Maryland, - cô đáp. – Như ông đã biết, bạo động gia tăng. Hai người bị giết chết, và một người bị thương rất nặng xuýt chết nhưng đã bình phục một cách rất kỳ lạ.

- Tốt, cô đã nắm tình hình rất chính xác, -- Ông nói – Bây giờ cô cho tôi biết chuyện này. Cái gì làm cho cô tin rằng chi nhánh nhỏ của Ngân hàng Quốc gia thứ Nhất ở Virginia sẽ là mục tiêu tiếp theo?

Ánh mắt của Carter rất gay gắt. Cô nhìn xuống đùi, cố suy nghĩ rồi nhìn lên lại. Cô biết cô đã đến hồi kết thúc ra sao, nhưng trình bày cho thủ trưởng của các chiến dịch nội hạt sẽ rất khó khăn.

- Tôi nghĩ chắc ông biết tôi tin chuyện này vì tôi thấy được các sự kiện xảy ra. Sự kiện đã có sẵn… hầu hết đã có nói trong hồ sơ.

- Không ai thấy điều này trong hồ sơ, -- Ông ta đáp. – Chúng tấn công ba ngân hàng khác nhau với ba vụ cướp, nhưng cô thuyết phục Andreuws tin rằng chúng sẽ tấn công chi nhánh khác nữa của Ngân hàng Quốc gia thứ Nhất.

- Phải thưa ông, tôi đã làm thế.

- Điên… đáng chú ý là làm sao cô nói cho ông ta nghe lời cô?

- Không phải nghe lời tôi, -- Cô đáp, hy vọng Andrews không nói cho Carter nghe từng lời cô đã nói.

- Cô đã dùng tên tôi.

Cô giật thót người.

- Phải, thưa ông, tôi đã làm thế.

- Cô đã nói với Andrews chính tôi ra lệnh. Có phải thế không, Delaney?

Đã đén lúc rồi đây, cô nghĩ. Cái giọng của người có quyền sinh sát trong tay.

- Vâng, thưa ông.

- Chúng ta trở lại thực tế vừa rồi, nhé? Đây là điểm tôi muốn biết. Bọn “Chính Khách” đã tấn công vào các ngày 15 tháng ba, 13 tháng tư rồi 15 tháng năm. Chúng tôi không biết tại sao chúng tấn công vào những ngày đặc biệt ấy, nhưng cô biết, phải không? Chính cô đã nói thế với Andrews. – Ông ta nhắc cho cô nhớ. – Nhưng cô không giải thích rõ ràng.

- Không có thì giờ để giải thích.

- Bây giờ có thì giờ rồi. Căn cứ vào đâu mà cô kết luận như thế?

- Nhờ Shakepeare, thưa ông, -- Cô đáp.

- Shakepeare à?

- Vâng, thưa ông. Tất cả các vụ trộm đều theo một khuôn mẫu, hầu như giống một thủ tục trong công việc gì đây. Tôi đã lấy một bản in về các chi tiết của ngân hàng thứ nhất trong tuần lễ trước khi xảy ra vụ trộm. Tôi cũng làm như thế với hai ngân hàng kia. Tôi nghĩ là có gì đấy hiện ra cho thấy có mối liên hệ giữa các vụ cướp này.

Cô dừng nói để lắc đầu.

- Tôi đã có hàng đống các bản in khắp văn phòng, và tôi thấy có điều hơi kỳ cục. May thay, tôi có các đĩa ghi âm của các ngân hàng, cho nên tôi có thể kiểm tra chéo trên máy tính.

Carter thoa cằm, làm cho cô rối trí. Cô thấy vẻ nôn nóng hiện ra nơi mắt ông ta.

- Thưa ông, xin ông chịu khó cho một chút. Ngân hàng thứ nhất bị cướp ngày 15 tháng ba. Cái ngày này có làm cho ông suy nghĩ gì không?

Không để cho ông kịp trả lời, cô hỏi tiếp:

- Ngày kỷ niệm danh nhân trong tháng ba phải không? Ngày kỷ niệm Julius Caesar phải không?

Ông ta gật đầu.

- Đêm hôm qua, ý ấy chắc đã nảy ra trong óc tôi trong khi tôi đọc các bản tin, và tôi nhận thấy có người đàn ông tên là Nate Cassius đã rút tiền trên thẻ ATM. Tôi vẫn chưa kết hợp được các sự kiện này, - cô xác nhận. – Nhưng tôi nhận ra rằng tên đầu nậu của nhóm chính khách này đã để lại đầu mối, không biết tôi có đúng không, nhưng tôi rất hy vọng mình nghĩ đúng. Có lẽ hắn chơi trò che mắt chúng ta. Có lẽ hắn đợi để xem chúng ta có chú ý đến việc này không.

Bây giờ thì cô đã làm cho ông ta hoàn toàn chú ý. Ông ta bảo:

- Nói tiếp đi.

- Như tôi đã nói hồi nãy, ngày chúng ăn cướp làm tôi đâm nghi cho đến lúc tôi tìm ra. Tôi xem lịch La Mã thì thấy rằng khi người La Mã tính các ngày trong các tháng, họ thường ghi ngày kỷ niệm các danh nhân. Chúng ta đã biết trong vở kịch Julius Caesar của Shakepeare, ngày kỷ niệm trong tháng ba đúng vào ngày 15. Nhưng không phải tháng nào cũng thế. Có tháng rơi vào ngày 13. Cho nên, tôi mới chú ý thấy cái ngày rút tiền trên thẻ ATM đúng vào tuần lễ trước khi xảy ra vụ cướp thứ hai và thứ ba, ông biết tôi tìm ra cái gì không?

- Có phải Nate Cassius đã rút tiền ở các ngân hàng ấy?

- Không, thưa ông, -- Cô trả lời. – Nhưng một kẻ có tên Wiliam Brutus rút ở một ngân hàng, và Mario Casca rút ở ngân hàng khác… và các lần rút tiền đều diễn ra hai ngày trước khi xảy ra các vụ cướp. Tôi nghĩ là chúng nghiên cứu cách sắp xếp của các ngân hàng.

- Nói tiếp đi, -- Ông ta nói, người chồm tới trước.

- Tôi không tổng hợp được tình hình cho đến giờ phút cuối. Tôi phải lôi hết các biên bản giao dịch củ tất cả các ngân hàng nằm trong khu vực ba bang, từ ngân hàng thứ 11 trở lên.

- Vì hai vụ rút tiền lần sau được thực hiện đúng vào hai ngày trước khi xảy ra các vụ trộm.

- Phải. – Cô đáp – Tôi thức gần suốt cả đêm để kiểm tra chéo các dữ liệu, tôi coi trong máy tính thuộc ngân hàng thứ 11, và trời ơi, tôi thấy được vấn đề. Ông John Ligarius đã rút tiền ở chi nhánh nhỏ của Ngân hàng Quốc gia thứ Nhất vào lúc 3 giờ 45 phút sáng. Tất cả những cái tên này – Cassius, Brutus, Casca, Ligarius – là của những người âm mưu chống lại Caesar. Tôi không có thì giờ kiểm tra những người cá các thẻ này, nhưng tôi tìm ra những thẻ này đều xuất phát từ các ngân hàng ở Airlington. Ligarius rút tiền ở Ngân hàng Quốc gia thứ nhất. Cho nên, Ngân hàng Quốc gia thứ Nhất sẽ là mục tiêu tiếp theo cho chúng cướp. Tôi thấy thì giờ quá cấp bách, mà thượng cấp của tôi, ông Douglas, không thích hợp. Ông ấy đã đi để đáp chuyến bay lâu 4 giờ. Tôi phải dùng sáng kiến – Cô nhấn mạnh – Tôi thà mang lỗi, chịu mất việc còn hơn giữ im lặng những điều tôi khám phá ra mà tôi cho là đúng. Thưa ông, những suy nghĩ và quyết định của tôi, tôi đã đánh đầy đủ trong bản tường trình của tôi, khi ông đọc, chắc ông sẽ thấy rằng tôi chịu hoàn tòan trách nhiệm về hành động của tôi. Các đồng đội của tôi không có liên quan gì đến quyết định gọi cho Andrews hết. Nhưng theo ý kiến của tôi, -- Cô vội nói tiếp, -- Tôi, cũng như những người khác trong phòng làm việc của tôi, có bằng thạc sĩ, và tất cả chúng tôi đều làm việc rất nghiêm túc. Chúng tôi không phải chỉ là nhân viên đánh máy chuyển lời nhận xét của nhân viên mật vụ vào cơ sở dữ liệu mà thôi. Chúng tôi còn phân tích thông tin chúng tôi nhận được.

- Lập trình máy tính cũng làm thế.

- Phải, nhưng máy tính không có tâm hồn hay là bản năng. Chúng tôi có. Và thưa ông, vì bây giờ chúng ta đang bàn về công việc, nên tôi xin thưa rằng công chức đã được tăng lương, nhưng lương chúng tôi thì không.

Ông Carter chớp mắt.

- Cô yêu cầu tôi tăng lương phải không?

Avery nhăn mặt. Có lẽ cô nói quá nhiều, nhưng ít ra nếu cô mất việc, thì Lou, Mel và Margo cũng có lợi. Bỗng cô cảm thấy tức giận vì cô và các đồng sự đã bị đánh giá quá thấp. Cô vòng tay, nhìn thẳng vào mắt Carter.

- Khi tôi viết tờ tường trình báo cáo cho ông, tôi cảm thấy tôi đã hành động rất đúng. Tôi không có cách nào khác ngoài việc phải thông báo cho Andrews biết, và nếu tôi không dùng tên ông thì chắc ông ấy cũng không nhúc nhích. Tôi biết tôi đã dùng quá quyền hạn, nhưng vì không có thời gian nữa nên tôi phải…

- Họ đã tóm được chúng rồi, Avery à.

Cô dừng lại đột ngột rồi hỏi:

- Xin lỗi, ông nói sao?

- Tôi nói Andrews và nhân viên của ông ấy đã tóm được chúng rồi.

Cô không hiểu tại sao cô quá sửng sốt khi nghe tin này, nhưng cô sửng sốt thật. Cô hỏi:

- Tóm được tất cả bọn chúng à?

Ông gật đầu.

- Andrews và các nhân viên đợi, đúng 10 giờ 3 phút, ba thằng ấy ùa vào ngân hàng.

- Có tên nào bị thương không?

- Không.

Cô thở dài.

- Thật nhờ trời!

Carter gật đầu.

- Chúng mặc đồ trắng, cô có hiểu ý nghĩa chúng chọn màu trắng không?

- Hiểu chứ. Các Thượng nghị sĩ La Mã mặc áo dài trắng.

- Hiện giờ ba thằng ấy đang được thẩm vấn, nhưng cô chắc đã biết chúng muốn chơi trò gì rồi.

- Có lẽ chúng xem mình là những kẻ vô chính phủ muốn lật đổ chính quyền. Chúng sẽ nói với ông họ muốn giết Caesar, và có lẽ họ còn tung hô mình là thánh tử đạo vì mục đích này, nhưng ông biết sao không. Khi ông đã bác bỏ hết những chuyện bậy bạ vô nghĩa do chúng đưa ra, thì tật nào tính ấy thôi. Tham lam là động cơ chính. Chúng làm ra vẻ vì lý tưởng. Thế thôi.

Cô cười, cảm thấy hài lòng, bỗng nhiên một ý nghĩ nảy ra trong óc cô.

- Thưa ông, hồi nãy ông có nói buổi sáng của tôi sẽ xấu hơn, - cô nhắc ông ta. – Ông muốn nói cái gì thế?

- Sẽ có cuộc họp báo trong… -- Ông dừng lại để xem đồng hồ. – 10 phút nữa, và cô là nhân vật chính cho mọi người chú ý. Tôi biết cô ghét cảnh phải trình diễn trước ống kính. Tôi cũng không thích họp báo, nhưng chúng ta phải làm gì đáng làm.

Avery cảm thấy hốt hoảng.

- Mike Andrews và tổ công tác của ông ấy phải dự họp báo mới đúng. Họ đã bắt được các nghi can. Tôi chỉ làm công việc của tôi thôi.

- Có phải cô khiêm tốn hay là…

Cô nghiêng người tới trước, cắt ngang lời ông Carter.

- Thưa ông, tôi muốn được giấu mặt.

Carter ngạc nhiên rồi mỉm cười, mắt long lanh trở lại.

- Cô ghét cay ghét đắng họp báo thế à?

- Phải, thưa ông. – Cô khen ông ta đã có thái độ cởi mở, nhưng vẫn không hết ái ngại trong lòng. – Tôi xin phép hỏi ông một câu được không?

- Được .

- Tại sao hồ sơ của tôi nằm trên bàn ông? Tôi đã theo đúng thủ tục… -- Rất nghiêm túc, cô nói. -- Và nếu ông không có ý định sa thải tôi.

- Tôi muốn làm quen với bộ phận của cô, -- Ông ta đáp vừa lấy tập hồ sơ lên.

- Tôi xin phép hỏi ông tại sao được không?

- Cô đang có thượng cấp mới.

Cô cảm thấy khó tin. Cô và những người khác làm việc rất hòa hợp với Douglas, chuyện thay đổi khó mà có.

- Vậy ông Douglas về hưu à? Ông ấy có nói đến chuyện ổng về hưu lâu rồi, khi tôi mới đến đây.

- Phải, - Carter đáp

Avery cứ hỏi tiếp:

- Tôi xin phép hỏi ông ai là thủ trưởng mới của tôi?

Ông Carter ngước mắt lên khỏi cái kẹp hồ sơ trên tay.

- Tôi, - Carter đáp. Ông để cho cô hết bàng hoàng mới nói tiếp. – Bốn người trong nhóm cô sẽ chuyển sang bộ phận của tôi.

Cô tươi tỉnh lên.

- Chúng tôi sẽ có chỗ làm trong văn phòng mới à?

Câu trả lời của Carter khiến cho sự phấn khích của cô có phần yểu xìu:

- Không, các anh chị vẫn ngồi nguyên tại chỗ, nhưng từ sáng thứ hai, các anh chị phải báo cáo trực tiếp cho tôi.

Cô cố làm ra vẻ sung sướng.

- Vậy mỗi khi chúng tôi cần nói gì với ông, chúng tôi chạy lên chạy xuống bốn tầng lầu à? – Cô biết cô đã nói với giọng nhõng nhẽo nhưng quá trễ rồi, không lấy lui lại được.

- Chúng ta có thang máy đấy, và hầu hết nhân viên của chúng ta đều có thể dùng thang máy mà không bị va đầu vào giữa khung cửa.

Lời châm biếm không làm cho cô bối rối.

- Phải, thưa ông. Tôi xin phép hỏi ông chúng tôi có được tăng lương không.

- Cô sẽ được xét để tăng lương bây giờ đây.

- Ồ. – Cô ước chi ông ta nói ra việc này ngay từ đầu…-- Tôi phải làm sao?

- Đây là phần phỏng vấn để xét tăng lương, và trong cuộc phỏng vấn, tôi hỏi, cô trả lời. Làm như thế là cách tốt nhất.

Ông lật hồ sơ bắt đầu đọc. Ông bắt đầu đọc phần lý lịch cá nhân do cô viết khi nộp hồ sơ xin việc, rồi xem kỹ phần tiểu sử.

- Cô sống vớ bà ngoại, Lola Delaney, cho đến năm lên mười một tuổi.

- Đúng thế.

Cô nhìn ông lật các trang giấy, rõ ràng để kiểm tra các sự cố và ngày tháng. Cô muốn hỏi ông ta tại sao ông cần biết rõ về quá khứ của cô như thế, nhưng cô nghĩ nếu làm thế, cô có vẻ tỏ ra quá lo sợ về quá khứ và có lẽ còn tỏ ra chống đối ông ta nữa, nên cô chắ hai tay vào nhau và ngồi yên. Carter là thượng cấp mới của cô, cô muốn phải khởi đầu làm việc với ông cho thật đàng hoàng.

- Lola Delaney bị giết chết vào đêm…

- Mười bốn tháng hai, - cô nói rất bình thản. – Vào ngày lễ Valentine.

Ông ta nhìn cô.

- Cô đã thấy việc ấy xảy ra?

- Phải.

Ông đọc lại những lời ghi chú lần nữa:

- Người giết bà ngoại cô là Dale Skarret, hắn bị truy nã. Đã có lệnh bắt hắn kết hợp thêm tội cướp tiệm kim hoàn, người chủ tiệm bị giết chết, số đá quý chưa cắt đẽo có trị giá lên đến hơn bốn triệu. Số kim cương chưa tìm thấy, còn Skarret chưa chính thức ra tòa.

Avery gật đầu.

- Bằng chứng buộc tội hắn không rõ ràng, người ta không thể kết án hắn. – Đúng thế, - Carter đáp. – Jilly Delaney cũng bị truy nã để thẩm vấn vì có liên quan đến vụ cướp.

- Phải.

- Chị ta không có mặt tại nhà vào cái đêm bà ngọai cô bị giết?

- Phải, nhưng tôi tin bà ấy đã phái Skarret đến bắt cóc tôi.

- Nhưng cô không đi?

Bụng cô lại quặn thắt.

- Phải, tôi không đi.

- Không ai biết chuyện gì xảy ra cho đến sáng hôm sau, và khi cảnh sát đến thì Skarret đã cao chạy xa bay, còn cô thì ở trong tình trạng nguy kịch.

- Hắn tưởng tôi đã chết, -- Cô nói xen vào.

- Cô được chở máy bay đến bệnh viện nhi đồng ở Jacksonville. Một tháng sau, khi cô lành các vết thương – thật là kỳ công khi thương tích quá trầm trọng như thế mà đã chữa khỏi – dì Carolyn đưa cô về nhà bà ta ở Bel Air, Caliornia. – Ông ta dựa người ra ghế. – Skarret lại đến tìm cô ở đấy, phải không?

Avery cảm thấy người căn thẳng tột độ. Cô đáp:

- Phải. Tôi là nhân chứng duy nhất kết liễu đời hắn. May cho tôi là tôi có thiên thần hộ mệnh. Cơ quan FBI bảo vệ tôi mà tôi không biết. Skarret đến trường vào giờ tan học.

- Hắn không mang vũ khí, và sau đó hắn nói với chính quyền rằng hắn chỉ muốn nói chuỵện với cô. Skarret đã bị bắt, bị đưa ra tòa vì tội sát nhân, -- Ông nói. – Hắn đã bị kết tội và hiện đang thi hành bản án tại Florida. Cách đây hai năm, hắn xin làm tờ cam kết để được thả ra, nhưng đã bị tòa từ chối. Tòa sẽ mở phiên xử nội trong năm nay.

- Phải, thưa ông, -- Cô nói. – Tôi thường xuyên liên lạc với văn phòng công tố viên, tôi sẽ được gởi giấy thông báo cho biết ngày mở phiên tòa.

- Chắc cô cần đến dự.

- Tôi không muốn vắng mặt ở đấy, thưa ông.

- Phiên tòa mới sẽ xử về chuyện gì? – Carter hỏi. Ông ta gõ khớp ngón tay lên tập giấy rồi nói. – Tôi rất lấy làm lạ là luật sư của hắn cho rằng hắn có lý do xin được phóng thích.

- Tôi sợ hắn có lý do thật, -- Cô đáp. – Có đơn nộp cho tòa tố cáo ông công tố viên đã cất giữ thông tin quan trọng. Bà ngoại tôi bị đau tim, và khi bác sĩ chữa trị cho bà đọc báo thấy bà chết, đã đến cho biết như thế. Tin ấy không được gaio cho luật sư của Skarret.

- Nhưng cô thật chưa nghe có một phiên tòa mới ư?

- Chưa, thưa ông, tôi chưa nghe.

- Bây giờ ta trở lại chuyện của cô, -- Carter nói.

Avery im lặng một hồi mới nói lại:

- Thưa ông, tôi xin phép được hỏi, tại sao ông quá quan tâm đến quá khứ của tôi như thế?

- Cô đang được xét tăng lương, -- Ông ta nhắc nhở cô. -- Hai tuần sau khi Skarret bị kết án, Jilly Delaney bị chết trong một tai nạn xe hơi.

- Phải.

Avery đã quên nhiều về thời thơ ấu, nhưng cô nhớ rấy rõ cuộc điện thoại hôm ấy. Cô vừa mới chúc mừng lễ sinh nhật của Carrie xong, lễ mừng trễ vì vào đúng ngày sinh nhật của dì thì Avery còn đang ở bệnh viện,và đang giúp người quản gia don món rau lên bàn trước khi họ ngồ vào bàn để ăn. Avery để món khoai nghiền bên cạnh dĩa của dượng Tony khi Carrie trả lời điện thoại. Người giám đốc nhà mai táng gọi đến báo cho cô biết Jilly bị chết trong tai nạn xe hơi, và đã được hỏa thiêu. Ông ta hỏi Carrie muốn làm gì với tro hỏa thiêu, và tài sản cá nhân, gồm có cái bằng lái xe đã cháy sém. Avery đang đứng trước cửa sổ nhìn ra những con chim ruồi bay liếng thoắng ngoài trời, cô nghe Carrie nói với ông ta hãy ném những thứ ấy vào thùng rác nào gần nhất. Cô nhớ rất rõ giây phút ấy.

Carter bỗng thay đổi đề tài để lôi cô trở lại vấn đề đang bàn thảo.

- Cô làm việc trong lúc còn học ở đại học Santa Clara, tốt nghiệp hạng ưu môn chính là tâm lý học và môn bổ túc là khoa học chính trị và môn phụ khác nữa là lịch sử. Rồi cô đến Stanford để học lấy bằng thạc sĩ về hình pháp. – Nói xong, ông ta gấp tập hồ sơ lại. – Trong phần nguyện vọng cá nhân, cô nói cô đã muốn làm nhân viên FBI khi cô mới 12 tuổi. Tại sao?

Cô biết ông ta đã đọc câu trả lời rồi. Câu trả lời có trong phần nguyện vọng cá nhân, cô đã viết vào đơn xin vào Cục Điều Tra Liên Bang.

- Một nhân viên FBI có tên John Cross đã cứu sống tôi. Nếu ông ta không canh chừng tôi… Nếu Skarret bắt tôi đi khỏi trường, cuộc đời tôi chắc đã bế mạc rồi.

Carter gật đầu.

- Và cô tin cô có thể làm điều gì khác lạ cho Cục Điều Tra Liên Bang.

- Phải.

- Thế tại sao cô không làm cảnh sát địa phương?

- Chỉ làm công việc giấy tờ trong văn phòng, -- Cô đáp. – Cuối cùng rồi được làm công việc như hiện nay. Tôi được làm thêm sáu tháng nữa rồi chuyển đi chổ khác.

Người phụ tá của Carter cắt ngang câu chuyện.

- Ông Carter, họ đang đợi ông.

Avery lại cảm thấy hốt hoảng.

- Thưa ông, nên để Mike Andrews tham dự cuộc họp báo này. Ông ấy và tổ công tác của ông ta đã có công lớn trong vụ này, rất đáng khen.

- Không ai trong chúng ta thích làm việc này hết, -- Ông đáp lại. – Nhưng đây là một vụ rất nổi bật, và nói thật với cô, và hầu hết mọi người ai cũng muốn nhận đôi lời khen ngợi.

- Các đồng đội của tôi và tôi chỉ muốn được tăng lương… và phòng làm việc có cửa sổ, thưa ông. Ông có biết phòng làm việc của chúng tôi nằm sau phòng máy không?

- Khó mà có được một căn phòng thoáng đãng, -- Ông ta đáp. – Và cô có ý nghĩ chúng ta bàn chuyện này khi nào thế?

Avery khựng người.

- Thưa ông, trong việc xét tăng lương.

Ông ta cắt ngang lời cô.

- Cô đã nói với tôi cô tự ý gọi Andrews một mình kia mà.

- Phải, đúng thế, nhưng những người khác… rất cần thiết. Đúng thế, thưa ông, họ đã giúp tôi rất nhiều trong việc tìm kiếm tên của bọn cướp trong hồ sơ.

Mắt Carter nheo nheo.

- Cô có biết rằng tội nói dối sẽ không được tăng lương không?

- Thưa ông, Mel, Lou, Margo và tôi là một tổ. Họ đã giúp đỡ tôi. Cũng như tôi, họ sẽ không tin…

Máy nội đàm của Carter kêu ù ù. Ông ta bực tức nhấn mạnh cái nút trả lời và nói:

- Tôi sẽ đến bây giờ.

Ông ta lấy áo vét tông, mặc lên người, cau mày nhìn cô một lát.

- Hãy thư giãn đi, Delaney, -- Ông nói. – Cô được thoát nạn. Tôi sẽ miễn cho cô tham dự cuộc họp báo.

Cô nhẹ cả người.

- Cám ơn ông.

Khi Carter đi ra khỏi bàn, cô đứng dậy, chiếc bít tất vo lại một nắm trong tay, giấu dưới chiếc áo khoác vắt trên cánh tay. Ông ta dừng lại ở cửa, quay lui, cặp lông mày vẫn còn cau lại.

- Delaney, đừng bao giờ sử dụng tên tôi khi chưa có phép của tôi.

- Vâng, thưa ông.

- Còn chuyện này nữa, -- Ông nói.

- Chuyện gì thưa ông?

- Chúc làm việc thật tốt.

Kẻ Phá Đám -- Phần Mở Đầu


KẺ PHÁ ĐÁM
Tác giả: Julie Garwood
Chuyễn ngữ: Văn Hòa - Kim Thùy


Phần Mở Đầu



Mẹ của Avery Alizabeth Delaney là một người điên loạn.

May là mẹ cô, Jilly, đã bỏ đi đâu mất tích sau ngày Avery ra đời ba hôm.

Avery được bà ngoại Lola và dì Carrie nuôi nấng. Ba thế hệ đàn bà sống yên lành, đạm bạc trong một ngôi nhà có khung gỗ hai tầng trên phố Barnett chỉ cách quảng trường thành phố Seldon Veach, Florida, hai khu phố. Không khí ở khu phố Barnnett rất khác sau khi Jilly bỏ nhà ra đi. Căn hộ trước đây thường ồn ào náo nhiệt, bây giờ yên tĩnh. Thậm chí Carrie đã biết cười trở lại, và suốt năm năm tuyệt diệu, cuộc sống rất an lành bình dị.

Tuy nhiên những năm về trước khi còn Jilly ở nhà, bà ngoại Lola hết sức khổ sở vì chị ta. Bà có con khi đã lớn tuổi, cái tuổi tri thiên mệnh, cho nên bây giờ bà đã già yếu, mệt mỏi. Ngày Avery lên năm, Lola đã bắt đầu đau ngực. Vào ngày sinh nhật của bé, bà phủ cái trứng lên cái bánh sinh nhật cho cháu, nhưng vừa làm được nửa đã phải ngồi nghỉ một lát mới làm tiếp được.

Lola không cho ai biết về bệnh tình của mình, bà không đi đến ông bác sĩ quen thuộc của bà ở Sheldon Beach , vì bà không tin ông ta kín miệng. Thế nào ông ta cũng nói cho Carrie biết về bệnh tình của bà. Bà đã hẹn với một ông bác sĩ chuyên khoa về tim mạch ở Savannah , rồi lái xe đến đấy để gặp ông ta. Sau khi đã khám rất cẩn thận, ông cho biết bệnh tình của bà rất nghiêm trọng. Ông kê đơn cho thuốc uống giảm đau và trợ tim, khuyên bà đi đứng chậm lại và, với một giọng rất nhẹ nhàng, ông nói rằng bà phải bớt làm việc.

Lola không đếm xỉa gì đến lời khuyên của bác sĩ. Ông bác sĩ gà mờ ấy biết gì mà nói? Có thể một chân bà đã nằm dưới mồ, nhưng lạy Chúa, chân kia bà phải cố đứng cho thật vững ở trên mặt đất. Bà còn đứa cháu ngoại phải nuôi, và bà sẽ không đi đâu hết nếu chưa làm xong công việc.

Lola có tài giả vờ mình có sức khỏe tốt rất giỏi. Bà đã hoàn thiện cái biệt tài ấy trong những năm rối rắm vì lo kiểm soát Jilly. Khi ở Savannah trở về, bà cố tin mình khỏe như bò mộng.

Và quả đúng như thế.

Bà ngoại Lola từ chối không nói gì về Jilly, nhưng Avery muốn biết hết những chuyện về chị ta. Bất cứ khi nào cô bé hỏi về mẹ mình, là bà ngoại cô mím môi rồi trả lời như mọi khi:

- Ta ước sao cho nó tốt. Ta ước sao cho nó hoàn toàn tốt. – Rồi không để cho Avery có thì giờ hỏi tiếp, bà chuyển sang vấn đề khác. Dĩ nhiên đấy không phải là câu trả lời thỏa đáng, nhất là đối với một em bé năm tuổi hiếu kỳ.

Cách duy nhất mà Avery có thể biết đôi chút về mẹ em là hỏi dì em. Carrie thích nói về Jilly, cô không hề quên bất cứ hành động xấu xa nào của chị cô, và vì thế mà tội lỗi của mẹ Avery chồng chất như núi.

Avery rất nể phục dì em. Em tin dì là người xinh đẹp nhất trần đời, và ước mơ sao em giống dì chứ đừng giống bà mẹ trời đánh của mình. Carrie có tóc màu giống như màu mứt đào bà ngoại làm, và cặp mắt có màu xám xanh như mắt con mèo có lông trắng mà Avery đã thấy ảnh màu trong một cuốn sách truyện. Carrie thường ăn kiêng để sụt ký, nhưng Avery nghĩ rằng để như thế dì em cũng đẹp rồi. Carrie cao 1m65, nên trông cao ráo đẹp đẽ, và khi cô cài những kẹp tóc sáng lóng lánh trên đầu để giữ cho tóc khỏi xõa xuống mắt trong khi học hay làm việc nhà, trông cô như một công chúa. Avery thích hương thơm nơi người dì tỏa ra, hương thơm như mùi thơm của hoa dành dành. Carrie nói với Avery rằng đây là nước hoa cô yêu thích, và Avery nghĩ đây là loại nước hoa đặc biệt. Khi Carrie vắng nhà, Avery cảm thấy cô độc, cô gái bèn lẻn vào phòng ngủ của dì, rảy nước hoa lên tay lên chân, tưởng tượng dì của em đang ở phòng bên cạnh.

Tuy nhiên điều mà Avery thích nhất về Carrie là dì em đã nói với em như nói với một người lớn. Dì em không đối xử với em như bà ngoại Lola đã làm. Khi Carrie nói về người mẹ trời đánh của em, Jilly, dì em thường bắt đầu bằng một giọng rất nghiêm trang:

- Dì không che dấu sự thật vì cháu còn nhỏ. Cháu có quyền biết sự thật.

Vào tuần lễ trước khi Carrie đi California, Avery vào phòng dì để thu xếp đồ đạc. Cô bé rất thích giúp dì, và Carrie đã thu xếp xong, cô bảo cháu gái ngồi vào bàn trang điểm của mình, để trước mặt cô bé chiếc hộp đựng giày, trong hộp có nhiều đồ trang sức rẻ tiền. Cô đã mua những thứ này ở chợ trời gần nhà để làm quà cho Avery trước khi cô ra đi. Avery rất sung sướng khi nhìn những đồ trang sức bóng loáng và lập tức em trang điểm trước tấm kính hình bầu dục.

- Carrie, tại sao dì phhải đi tuốt đến tận California? Dì phải ở nhà với bà ngoại với cháu chứ?

Carrie cười.

- Dì phải ở nhà à?

- Peyton nói mẹ nó đã nói như thế. Peyton nói mẹ nó nói dì đã học xong đại học và bây giờ dì phải ở nhà để giúp chăm sóc cháu vì cháu hay quấy rầy.

Peyton là bạn thân nhất của Avery, và vì cô bé này lớn hơn Avery một tuổi, nên Avery tin lời cô ta nói. Theo Carrie thì mẹ của Peyton, Harriet, là người hay xen vào chuyện của người khác, nhưng vì chị ta tốt với Avery, nên cô bỏ qua tính hay chen vào việc nhà người khác của chị ta.

Sau khi đã xếp cái áo len bằng lông dê màu xanh nhạt, cái áo Carrie thích nhất vào vali xong, một lần nữa cô nói cho cháu nghe vì sao cô phải ra đi.

- Cháu nhớ là dì được tài trợ để đi học tiếp chứ? Dì phải lấy bằng thạc sĩ, và dì đã nói cho cháu biết ít ra cung 5 lần rồi, là tại sao việc học thêm sau đại học rất quan trọng. Dì phải đi, Avery à. Đây là cơ hội ngàn vàng cho dì, và sau khi dì đã lập công ty riêng, dì sẽ già và nổi tiếng, rồi cháu và bà ngoại sẽ đến ở với dì. Chúng ta sẽ có nhà lớn ở Beverly Hill, có gia nhân và có hồ bơi.

- Nhưng như thế thì cháu không học đàn dương cầm được. Bà Burns nói cháu phải học vì cháu có năng khiếu âm nhạc.

Vì thấy cô cháu gái có vẻ quan trọng quá, nên Carrie không dám cười.

- Bà ấy nói cháu có khiếu có nghĩa là cháu phải thực tập mới giỏi được, nhưng cháu có thể học đàn ở California . Cháu cũng có thể học Karate ở đấy luôn.

- Nhưng cháu thích học Karate ở đây. Sammy nói học võ này cháu sẽ đá rất mạnh, nhưng dì biết sao không, Carrie? Cháu nghe bà ngoại nói, mẹ của Peyton cho biết bà ta không thích con bà học Karate. Bà nói làm thế không hợp với giới nữ lưu.

- Tầm bậy, - Carrie nói.-- Dì đóng học phí cho cháu học, dì muốn cháu lớn lên biết cách để tự vệ.

- Nhưng tại sao phải tự vệ? -- Avery hỏi. -- Mẹ của Peyton cũng hỏi bà ngoại tại sao phải tự vệ.

- Vì dì không muốn bất kỳ ai có thể xô đẩy cháu như Jilly thường xô đẩy dì,- cô đáp.- Cháu lớn lên sẽ không sợ ai hết. Và dì tin chắc ở California có nhiều trường dạy võ để tự vệ rất tuyệt vời, giáo viên giỏi như Sammy.

- Mẹ Peyton nói bà ngoại nói rằng Jilly đi xa để làm tài tử điện ảnh. Dì cũng muốn làm tài tử điện ảnh à, Carrie?

- Không, dì muốn xây dựng công ty và hái ra rất nhiều tiền. Dì sẽ làm cho những người khác trở thành tài tử.

Avery quay lui với tấm gương và đeo cặp hoa tai bằng kim cương giả thật lớn màu lục. Rồi cô bé mở sợi dây chuyền cũng bằng kim cương giả và đeo vào cổ.

- Dì biết Peyton nói sao không? -- Cô bé hỏi rồi không đợi trả lời mà nói tiếp. -- Nó nói mẹ nó nói khi Jilly có mang cháu, bả đã lớn đủ biết chuyện đời rồi.

- Đúng thế! -– Carrie trả lời. Cô kéo hộc tủ đựng bít tất ra, lôi hết ra giường rồi so từng đôi. -- Jilly đã 18 tuổi.

- Nhưng mẹ Peyton nói thế nghĩa là sao? Mẹ cháu đủ biết chuyện đời là biết cái gì?

- Bà ấy muốn nói rằng Jilly phải biết cách đề phòng.

Cái hộc tủ rơi xuống nền nhà. Carrie lấy lên đẩy lại vào tủ, rồi tiếp tục sắp chồng bít tất.

- Nhưng đề phòng nghĩa là sao? –- Avery hỏi. Cô bé nhăn mặt với mình trong gương khi đeo chiếc dây chuyền thứ hai.

Carrie tảng lờ như không nghe câu hỏi của cô bé. Cô không muốn nói dông dài đến chuyện tình dục và ngừa thai. Avery còn nhỏ quá không nên nghe những chuyện như thế này. Cho nên cô muốn cô cháu gái chú ý qua chuyện khác.

- Cháu rất may mắn đấy nhé.

- Có phải cháu nhờ có dì và bà ngoại chăm sóc, vì cháu là đứa bé quậy phá không?

- Đúng thế, -- Cô đáp. -- Nhưng cháu còn may mắn hơn nữa là vì Jilly khi có thai cháu, bả không uống rượu nhiều hay là không uống từng nắm thuốc an thần có chất ma túy. Nếu mẹ cháu mà xài nhiều cái chất độc hại ấy vào người, thì khi cháu ra đời, thế nào cháu cũng mang họa vào thân.

- Peyton nói mẹ nó nói cháu may mắn đã được ra đời bình an vô sự.

Quá chán, Carrie nói:

- Có phải mẹ Peyton rất thích nói về Jilly không?

- Ờ, -- Cô bé đáp. -- Thứ thuốc an thần ấy không tốt à?

- Ừ không tốt nếu uống nhiều. Chúng sẽ giết chết cháu như chơi.

- Thế tại sao người ta dùng?

- Vì họ ngốc. Dẹp cái đồ nữ trang ấy đi và đến ngồi trên vali cho dì có thể đóng lại.

Avery cẩn thận để hoa tai và dây chuyền vào hộp đựng giày. Cô bé leo lên cái giường có đỉnh màn cao.

- Cho cháu cái này nhé?- Cô bé hỏi, vừa lấy cuốn sách nhỏ có bao nhựa màu xanh.

- Không, không được. Đây là cuốn nhật ký của dì, -- Carrie đáp. Cô lấy cuốn sách nơi tay Avery, nhét vào cái túi nhỏ trong vali. Cô đóng vali, Avery lên ngồi ở trên. Cô đè mạnh vali xuống rồi khóa lại.

Khi Carrie giúp cháu bước xuống giường, thì Avery hỏi:

- Tại sao tuần sau mới đi mà bây giờ đã thu xếp đồ đạc? Bà ngoại nói dì làm thế là vì lo xa.

- Thu xếp đồ đạc cho gọn trước khi sơn phòng cho cháu, trước khi dì ra đi không phải là chuyện lo xa. Làm thế để khỏi vướng đồ đạc khi sơn quét lại phòng. Ngày mai cháu và dì ra tiệm bán sơn để chọn màu.

- Cháu biết. Dì đã nói dì để cho cháu chọn màu. Mà dì Carrie này?

- Cái gì thế? -- Carrie hỏi vừa mang vali đến gần cửa.

- Có phải bà mẹ trời đánh khi gặp cháu sẽ ghét cháu không?

Carrie quay lui, thấy sự lo sợ hiện ra nơi mắt Avery, bỗng cô thấy nổi giận. Mặc dù Jilly không có ở đây, chị ta vẫn gây đau đớn cho gia đình, chuyện này không chấm dứt được hay sao?

Carrie nhớ cái đêm cô biết chị cô sắp có con như nhớ chuyện vừa xảy ra hôm qua.

Jilly tốt nghiệp trung học vào buổi tối thứ sáu tháng năm trời dịu mát. Rồi cô ta về nhà, phá hỏng buổi lể ăn mừng bằng cách tuyên bố rằng cô có thai sáu tháng rồi. Cô ta đã khéo giữ để không lộ ra ngoài.

Khi nghe tin, Lola quá kinh hoàng, mới đầu bà sợ gia đình sẽ mang tai tiếng, xấu hổ; nhưng rồi bà bình tĩnh và nói:

- Chúng ta là một gia đình, chúng ta phải tìm cách giải quyết. Chúng ta phải tìm ra một cách để thu xếp việc này cho ổn thỏa. Phải vậy không, Carrie?

Carrie đang đứng nơi bàn ở phòng ăn, lấy dao cắt một miếng bánh nơi cái bánh thật lớn mà bà Lola đã bỏ công trang hoàng cả buổi sáng.

- Thời đại bây giờ và về sau mà để cho có thai là điều rất ngu đần. Jilly, chị không hề nghe về chuyện ngừa thai à?Hay chị là đồ khờ dại?

Jilly đứng dựa vào tường, hai tay vòng trước ngực, nhìn Carrie. Lola muốn tránh cho hai cô con gái một cuộc đấu khẩu kịch liệt, bà bèn nói xen vào:

- Carrie, đừng nặng lời làm gì. Chúng ta đừng làm cho Jilly buồn.

- Mẹ nên nói mẹ không muốn làm cho chị ấy buồn – Carrie chỉnh lời mẹ.

- Carrie, con đừng nói cái giọng ấy với mẹ.

Cô ân hận, cúi đầu, xúc miếng bánh bỏ vào đĩa.

- Vâng, thưa mẹ.

Jilly đốp lại:

- Tôi không nghĩ đến chuyện ngừa thai. Tôi đã đến ông bác sĩ ở Jacksonville để phá thai, nhưng ông không chịu lấy ra, vì ông ta nói cái thai đã lớn.

Lola ngồi phịch xuống ghế, đưa tay che mặt.

- Mày có đi bác sĩ…

Jilly không quan tâmđến vấn đề này nữa. Cô đi vào phòng khách, ngồi vào ghế nệm dài, lấy cái điều khiển tivi, bật lên xem.

- Chị ta gây nên nhiều chuyện phiền phức rồi bỏ đi, Carrie nói, để mọi chuyện cho chúng ta lo liệu. Khôn đấy chứ!

- Đừng nói thế, Carrie, -- Lola nài nỉ. Bà chà xát bộ lông mày như để làm dịu cơn đau đầu, rồi nói: -- Jilly không bao giờ chịu suy nghĩ chín chắn khi làm việc gì.

- Tại sao lại thế? Chị ấy phải biết sữa đổi tật xấu chứ. Mẹ đã bỏ qua hết thảy các tội lỗi của chị ấy chỉ vì mẹ không thể nghiêm khắc với chị ấy. Con nghĩ mẹ đã sợ chị.

- Nói thế thật kỳ cục, -- Lola lớn tiếng đáp lại. Bà đứng dạy khỏi bàn, đi vào bếp để rữa đĩa. – Chúng ta là một gia đình, chúng ta phải cho qua một chuyện như thế này, -- Bà nói lớn cho Carrie ở ngoài nghe. -- Con phải giúp đỡ thôi, Carrie à. Chị con cần sự nâng đỡ về tinh thần.

Carrie nắm chặt hai tay, bực tức. Biết làm sao cho mẹ cô mở mắt nhìn thấy đứa con trắc nết, ích kỷ mà bà đã nhọc công nuôi dưỡng. Tại sao bà không thấy sự thật?

Mùa hè năm đó là một kỷ niệm đau buồn. Jilly là cơn ác mộng khủng khiếp thường xuyên của cô, và mẹ họ đã tất bật làm lụng để phục vụ cho cô ta. May thay, Carrie có công việc làm mùa hè ở quán bà Sammy và Grille, cô đã làm rất nhiều giờ trong ngày để khỏi về nhà.

Jilly sinh vào cuối tháng tám, tại bệnh viện quận. Sau khi sinh xong, cô ta nhìn đứa bé quằn quại, mặt mày phồng rộp, đã làm cô đau đớn và quyết định không muốn làm mẹ. Không bao giờ, không bao giờ. Nếu các bác sĩ bằng lòng, chắc cô ta đã cắt tử cung hay thắc buồn trứng vào hôm đó.

Lola đã lôi Carrie đến bệnh viện để thăm cô chị. Họ chưa vào đến phòng, Jilly đã tuyên bố rằng cô ta quá trẻ đẹp, không thể kè kè đứa bé bên cạnh. Ngoài thành phố Sheldon Beach ở Florida ra, cả một thế giới rộng lớn mở ra trước mắt cô, nhưng sẽ không có ai giàu có chú ý đến cô nếu cô đi đâu cũng ẵm đứa bé bên hông. Không, tình mẫu tử không hợp cho cô. Ngoài ra cô ao ước trở thành minh tinh điện ảnh. Cô phải khởi đầu bằng cách được phong hoa hậu Mỹ quốc. Cô ta nói với họ cô ta đã chuẩn bị đâu vào đấy rồi. Cô ta kheo rằng mình đẹp hơn những con bò cái cô đã xem trên tivi hồi năm ngoái, những cô gái thi hoa hậu mặc áo tắm đi trên sân khấu. Cô ta quả quyết rằng khi các giám khảo nhìn cô, thế nào họ cũng trao vương miện cho cô.

- Lạy chúa, chị dốt quá – Carrie nói – Họ không trao vương miện cho những cô gái đã có con.

- Mày mới là đồ dốt, Carrie à.

- Thôi, hai đứa, -- Lola ra lệnh. – Các con muốn để cho các nữ hộ sinh nghe hay sao?

- Họ nghe hay không, con chẳng cần, -- Jilly nói.

- Mẹ bảo con phải im, -- Lola đáp. -- Phải biết suy nghĩ, Jilly à. Bây giờ con đã làm mẹ rồi.

- Con không muốn làm mẹ. Con muốn làm minh tinh, -- Jilly nói lớn.

Hoảng hồn, Lola kéo Carrie vào phòng, bảo cô đóng cửa. Một tay nắm bó hoa bà mang đến cho Jilly, tay kia bà phải níu cánh tay của Carrie để cho khỏi khụy xuống.

Carrie tức giận vì bị bắt buộc phải đỡ bà. Cô dựa người vào cửa và nhìn cô chị.

- Này Jilly, tao không quan tâm đến lời mày nói, -- Lola nói, giọng thì thào giận dữ.

Mẹ cô thường không nói với Jilly một giọng như thế. Carrie thấy vui, cô bèn chú ý đến cuộc nói chuyện.

- Mày phải có trách nhiệm, -- Lola nói. Giọng bà nghiêm nghị, vừa nói bà vừa bước đến phía giường. – Mày phải làm mẹ cho thật tốt, Carrie và tao sẽ giúp mày nuôi nấng đứa bé. Công việc sẽ tốt đẹp. Mày sẽ thấy. Tao nghĩ là mày nên gọi bố đứa bé…. -- Jilly cười to khiến bà ngừng lại. – Có gì vui mà cười?

- Cười mẹ. – Jilly đáp. – Có phải mẹ dã hoạch định đời tôi theo ý của mẹ không? Mẹ luôn luôn muốn làm cho tôi phải cư xử và hành động theo ý của mẹ. Mẹ à, bây giờ tôi lớn rồi. Tôi muốn làm gì thì làm.

- Nhưng, Jilly, người bố có quyền biết anh ta có con gái.

Sửa cái gối dưới đầu cho cao, Jilly ngáp thật to.

- Tôi không biết bố đứa bé là ai cả. Có thể là thằng sinh viên đại học ở Savannah, nhưng cũng không chắc lắm.

Lola thả tay Carrie ra:

- Mày nói không chắc là sao? Mày nói với tao…

- Tôi nói láo. Mẹ muốn tôi nói thật phải không? Tốt, tôi nói cho mà nghe. Cha của đứa bé có thể cả tá thằng đàn ông.

Lola lắc đầu. Bà không muốn tin con gái.

- Đừng nói tầm bậy. Nói thật cho tao nghe.

Carrie ngẩng đầu.

- Ôi, lạy Chúa, Jilly!

Jilly thích thấy người khác sửng sốt và thích mọi người chú ý đến mình.

- Tôi nói thật đấy. Tôi không đếm xuể số đàn ông đã ngủ với tôi. Tôi không thể nào biết ai là bố của đứa bé. – Cô thấy mặt mẹ cô lộ vẻ ghê tởm. – Tôi làm cho mẹ buồn phải không? – Jillly hỏi, vẻ thích thú. – Đàn ông yêu tôi, - cô ta khoe khoang. – Họ làm tất cả những gì tôi muốn để tôi vừa lòng. Họ cho tôi ngững món quà đắt tiền và cho cả tiền mặt nữa, tôi phải giấu mẹ và Carrie để người khác khỏi ganh tỵ và làm ra vẻ ta đây thánh thiện hơn ai hết. Mẹ sẽ lấy tiền bạc và nữ trang của tôi, phải không? Nhưng tôi không để cho mẹ có cơ hội đâu. Tôi lanh lợi chứ không như mẹ tưởng đâu, mẹ à.

Lola nhắm mắt, cố chặn cơn buồn nôn trào lên.

- Mày có bao nhêu đàn ông cả thảy?

- Làm sao tôi biết? Mẹ không nghe tôi nói à? Tôi đã nói tôi không đếm xuể. Công việc tôi phải làm là để cho họ sử dụng cơ thể tôi trong một thời gian ngắn. Họ yêu vì tôi, tôi để cho họ yêu. Tôi đẹp hơn cả những diễn viên ở Hollywood cộng lại, và tôi sẽ nổi tiếng. Mẹ cứ đợi mà xem. Ngoài ra, tôi thích nhục dục. Khi đàn ông làm việc này ngon lành, ta có cảm giác rất tuyệt vời. Mẹ không hiểu phụ nữ tân thời đâu. Mẹ già rồi, mẹ à, mẹ khô khan hết rồi. Có lẽ mẹ không nhớ tình dục là gì.

- Bán thân lấy tiền à? Mày có biết làm thế là mày thành cái đồ gì không?

- Là người phóng khoáng, - Jilly càu nhàu.

Carrie bước ra khỏi cửa.

- Không, không phải. Làm thế là thành con đĩ dơ bẩn, Jilly à. Chị sẽ thành thế đấy.

- Mày không biết gì đâu mà xía vào, -- Jilly hét lớn. -- Đàn ông muốn mày như họ muốn tao đâu. Tao làm cho họ nổi điên, và họ không tèm nhìn đến mày đâu. Tao là người phóng khoáng nên mày ganh tỵ.

- Thôi mẹ ơi. Ta về thôi. – Carrie chạm vào vai mẹ cô.

Jilly quay đầu, nói lầu bầu:

- Phải, về đi. Để tôi ngủ. Đi đi, để cho tôi nghỉ ngơi.

Carrie phải giúp Lola ra xe. Chưa bao giờ cô thấy mẹ cô quẩn trí như thế, việc này khiến cô đâm lo sợ.

Khi họ lái xe rời khỏi bệnh viện, Lola thẩn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ.

- Con đã biết nó sẽ như thế nào rồi, con đã nói cho mẹ biết, nhưng mạ không nghe con. Mẹ như sống trong đám sương mù phải không?

Carrie gật đầu.

- Có cái gì trong người Jilly không ổn. Bản chất ty tiện trong người chị ấy đã vượt quá giới hạn… tính nết không bình thường.

- Có phải mẹ đã gây nên cho nó không? – Lola hỏi, giọng có vẻ bối rối. – Bố con đã làm hư nó, và sau khi ổng bỏ chúng ta, mẹ đã quá cưng chiều để nó khỏi cảm thấy bị bỏ rơi. Có phải mẹ đã làm cho nó trở thành con quái vật không?

- Con không biết.

Cả hai mẹ con không ai nói với ai lời nào cho đễn khi họ về nhà. Carrie lái xe chạy trên con đường vào nhà, đến đậu ở trước nhà xe, tắt máy. Khi cô mở cửa thì mẹ cô nắm cánh tay cô.

- Mẹ rất ân hận về cách mẹ đã đối xử với con – Bà bật khóc – Con là đứa con gái tốt, lâu nay mẹ xem đây như là điều hiển nhiên. Đời sống của chúng ta quay quanh Jilly phải không? Mẹ hình như đã bỏ hết thì giờ trong 18 nưm của nó để làm nó hạnh phúc. Mẹ chỉ muốn con hiểu rằng mẹ rất tự hào về con. Mẹ chưa bao giờ nói với con thế phải không? Mẹ nghĩ chuyện khủng khiếp vừa rồi đã làm cho mẹ nhận thấy con là một kho báu. Mẹ yêu con, Carrie à.

Carrie không biết trả lời như thế nào. Cô không nhớ trước đây có khi nào mẹ cô nó với cô là bà yêu cô không. Cảm thấy như thể cô đã thắng một cuộc thi, nhưng vì đối thủ không đến dự. Đứa con vàng đã bị mờ xỉn, và vì cô còn lại một mình, nên cô thắng cuộc.

Thế mà chưa đủ. Cô hỏi:

- Mẹ sẽ làm gì với Jilly?

- Dĩ nhiên mẹ sẽ làm cho nó cải tà quy chánh.

Carrie rút tay đi.

- Mẹ vẫn không thành công đâu. Chị ấy không cải tà qui chánh được đâu. Có lẽ chị không thể làm được. Chị ấy bệnh , mẹ à.

Lola lắc đầu.

- Nó được nuông chiều thành hư, nhưng mẹ có thể làm…

Carrie cắt ngang lời bà.

- Mẹ vẫn sống trong mộng ảo. – Cô nói rồi bước ra khỏi xe, đóng mạnh cửa và đi vào nhà.

Lola đi theo cô vào bếp, bà lấy cái tạp dề móc trên móc gỗ gắn trên tường, buộc quanh bụng.

- Mẹ có nhớ chuyện gì xảy ra vào ngày sinh nhật thứ tám của con không? – Carrie hỏi, vừa kéo cái ghế nơi bàn trong bếp ra và ngồi xuống.

Muốn tránh nhắc lại kỷ niệm đau buồn, Lola không quay người lui, bà nói:

- Không nhớ gì hết. Tại sao con không dọn bàn để mẹ dọn thức ăn ra?

- Mẹ cho con búp bê Barbie mà con muốn có.

- Carrie, bây giờ mẹ không muốn nói chuyện này.

- Mẹ ngồi xuống. Chúng ta cần bàn chuyện này.

- Chuyện này xảy ra đã lâu. Tại sao con còn nhắc lại làm gì?

Lần này Carrie không nhượng bộ. Cô nói tiếp:

- Đêm đó con đã vào trong phòng ngủ của mẹ.

- Carrie, mẹ không…

- Mẹ ngồi xuống, mẹ kiếp! Mẹ không thể sống như thế này. Mẹ phải nhìn vào thực tế. Ngồi xuống, mẹ. – Cô muốn nắm vai bà lắc mạnh cho bà thức tỉnh.

Lola làm theo lời con. Bà kéo ghế ngồi xuống trước mặt con, hai tay chắp lại ngay ngắn trong lòng.

- Mẹ nhớ bố con rất buồn vì lời tố cáo của con, -- bà nói. – Còn Jilly thì khóc. Đêm ấy con thức cả nhà dậy.

- Chị ấy muốn lấy con búp bê của con, -- Carrie nói. -- Con không chịu đưa cho chị ấy, chị nói chị sẽ lấy kéo múc mắt con ra. Lúc nữa đêm con thức dậy, chị ấy đứng bên giường nhìn con, tay cầm cái kéo của mẹ. Chị ấy cười, nụ cười bệnh hoạn. Chị mở kéo đóng kéo, làm phát ra tiếng kêu rùng rợn. Rồi chị lấy búp bê Barbie mới của con, con nhìn chị đâm mũi kéo vào mắt búp bê, và con nhìn nụ cười trên mặt chị… Cảnh tượng rất khủng khiếp. Khi con định hét lên, chị cúi xuống và nói nhỏ với con: - Bây giờ đến phiên mày.

- Con khi ấy còn quá nhỏ nên không nhớ chính xác sự việc đã xảy ra. Chuyện bé con xé thành to.

- Ồ không, con không phóng đại, -- Cô nói. – Chuyện xảy ra đúng như thế mà. Mẹ không thấy ánh mắt của chị ấy, nhưng con xin cam đoan là chị ấy muốn giết con. Nếu con ở trong nhà một mình với chị, thế nào chị cũng thực hiện điều chị mong ước.

- Không, không, nó chỉ dọa cho con sợ thôi, -- Lola khăng khăng nói. – Nó không muốn hại con. Jilly yêu con mà.

- Nếu mẹ và bố không có ở đấy, chắc chị ta đã hại con rồi. Chị ấy điên mẹ à. Con không cần quan tâm đến chị ấy, nhưng bây giờ có một đứa bé vô tội. Cô hít vào một hơi thật dài rồi nói: -- Con nghĩ là chúng ta nên khuyến khích Jilly cho đứa bé để họ làm con nuôi.

Ý kiến của cô làm Lola nổi giận.

- Không thể được, -- bà nói, đập mạnh tay lên bàn. – Đứa bé ấy là cháu con và cháu ngoại của mẹ, mẹ không để cho người lạ nuôi nó.

- Đấy là con đường hy vọng duy nhất để cho đứa bé có được tương lai sáng, -- Carrie biện luận. -- Con bé sẽ sống không nổi với mẹ nó, vì Jilly không thương nó. Con chỉ hy vọng mầm mống điên loạn trong người Jilly không di truyền cho con bé.

- Ôi lạy Chúa. Điều duy nhất sai trái của Jilly là nó quen nếp sống buông thả. Độ này rất nhiều thiếu nữ đã tỏ ra rất ngu đần với đàn ông. Thế là sai lầm, - bà vội nói tiếp,- Nhưng mẹ biết lý do tại sao Jilly muốn đàn ông thương yêu nó. Bố nó đã bỏ nó, và nó cố…

- Mẹ không hiểu gì hết hay sao? – Carrie hét to. – Hồi nãy con tưởng là mẹ đã hiểu được thực trạng của Jilly, nhưng bây giờ con nghĩ là con đã lầm. Mẹ không mở mắt ra mà nhìn. Mẹ đã hỏi con, phải chăng mẹ đã làm cho chị ấy trở thành quái vật không, mẹ không nhớ à?

- Mẹ muốn nói hạnh kiểm của nó là con số không, nhưng bây giờ Jilly đã là người mẹ rồi. Khi mẹ đến lại bệnh viện để đem nó và đứa bé về nhà, con sẽ thấy. Nó sẽ hiểu ra cho mà xem.

Thật giống như nói với bức tường.

- Mẹ nghĩ là bản năng làm mẹ sẽ hoán cải chị ấy à?

- Phải, mẹ nghĩ thế, -- Lola nói. Rồi con sẽ thấy, -- Bà lại nói, -- Jilly sẽ muốn cải tà qui chính.

Carrie bỏ cuộc. Quá đau đớn, cô về phòng và ở miết trong phòng cả đêm. Sáng hôm sau khi cô xuống dưới nhà, cô thấy trên bàn trong bếp có tờ giấy ghi lời nhắn. Mẹ cô cho biết đã đi Sears để mua cái nôi, áo quần em bé và ghế ngồi của trẻ con để gắn trên xe hơi.

- Mộng ảo! – Carrie lẩm bẩm nói.

Sáng thứ hai, Lola đến bệnh viện để đưa Jilly và đứa bé chưa đặt tên về nhà. Carrie từ chối không đi với mẹ. Cô nói với bà rằng cô phải làm việc vào ca sớm tại nhà hàng Sammy và rời khỏi nhà trước khi kịp hỏi cô.

Jilly đang đợi Lola. Cô ta đã mặc áo quần, đứng trước tấm gương trong phòng tấm chải tóc. Cô ta vẩy tay chỉ đứa bé đang khóc ở giữa chiếc giường nhàu nhò lộn xộn, cô ta vừa vứt đứa bé xuống đấy sau khi cô ta ra khỏi phòng mấy giây, và nói với Lola rằng bà có thể nuôi nó, bán nó, hay là cho nó… Cô ta chẳng cần quan tâm đến việc bà muốn làm gì thì làm. Rồi cô ta lấy cái bao ngủ và đi ra khỏi bệnh viện với số tiền cô ta ăn cắp của em gái, tiền dành dụm để vào đại học, nhét vào trong cái nịt vú.

Mãi cho đến hai tuần sau, Carrie mới thấy việc rút tiền xuất hiện trên tờ báo cáo của ngân hàng, Carrie quá giận. Cô làm việc cực nhọc để dành dụm tiền, cô quyết định lấy lại số tiên cho bằng được. Cô muốn khai cho cảnh sát biết tên kẻ đã ăn trộm, nhưng Lola không muốn cô làm thế.

- Chuyện trong gia đình phải đóng cửa bảo nhau, -- Bà quyết định như thế.

Mùa xuân năm sau, Carrie tốt nghiệp trung học, và mùa hè năm đó cô làm hai công việc. Lola đã dùng một ít tiền để dành của mình để giúp Carrie nộp học phí vào đại học, và Carrie đã làm thêm những công việc ngoài giờ ở trường đại học để phụ vào các việc chi tiêu. Vào dịp nghỉ lễ giáng sinh năm đó, khi Carrie về nhà, cô rất hững hờ với con của Jilly.

Tuy nhiên, Avery không phải là loại trẻ em đáng ghét để cho người ta lưu tâm đến. Chỉ cần nhìn cô bé cười toe toét hai lần là Carrie phải cười lại với bé. Mỗi lần về nhà, là sợi dây thân ái càng ràng buộc vững bền hơn. Đứa bé thương mến cô, và tình cảm, tuy chưa bộc lộ rõ ràng, đã nảy nở giữa hai dì cháu.

Avery là cô bé dịu dàng nhất, thông minh nhất, cho nên dù muốn dù không, Carrie cũng phải thay chân mẹ nó. Dĩ nhiên cô có bản năng bảo vệ của người mẹ. Cô sẽ làm bất cứ điều gì để giữ cho Avery được an toàn.

Thế nhưng bây giờ đã năm năm trôi qua, dù họ sống bên nhau yên ổn, Jilly vẫn còn là mối đe dọa gây đau khổ cho gia đình.

- Phải không dì Carrie? Có phải bà ấy ghét cháu không?

Carrie buộc lòng phải lưu tâm đến câu hỏi của cô bé. Chống hai tay lên hông, cô hít vào thật sâu rồi hỏi:

- Cháu cần biết Jilly nghĩ gì về cháu phải không?

Avery nhún vai đáp:

- Cháu không biết.

- Này nhé, dì sẽ nói cho cháu biết. Bà mẹ trời đánh của cháu có lẽ ghét cháu, nhưng không phải vì khi mới sinh cháu là ai, hay trông cháu như thế nào… Cháu là đứa bé hoàn hảo. Jilly chỉ không muốn lãnh trách nhiệm nuôi cháu thôi. – Cô chỉ cái ghế gần bên giường. – Dì sẽ nói cho cháu nghe chuyện quan trọng này, và dì muốn cháu phải chú ý nghe, ngồi xuống.

Avery vội vàng làm theo lời của dì.

- Có lẽ cháu còn quá nhỏ không nên nghe chuyện như thế này, nhưng dì vẫn nói cho cháu biết mẹ cháu là người điên loạn.

Avery thất vọng. Bé tưởng sẽ được nghe điều gì mới lạ.

- Dì đã nói chuyện này cho cháu nghe rồi. Nói rất nhiếu lần rồi.

- Dì muốn nhắc lại cho cháu nhớ, -- Cô nói. – Jilly không bình thường. Đáng ra mẹ cháu phải bị nhốt trong nhà thương điên một thời gian thật lâu mới phải.

Avery rất kinh ngạc khi nghe nói đến chuyện nhốt mẹ cô. Nhà thương điên là cái gì?

- Là chỗ dành cho người bệnh.

- Jilly bệnh à?

- Phải – Cô đáp. -- Nhưng không phải loại bệnh người ta thường mắc phải. Mẹ cháu mắc bệnh ti tiện, hận thù, và điên khùng. Chắc bà ta quá điên khùng mới bỏ một người tuyệt vời như cháu mà đi. – Carrie nói thêm rồi cuối người vuốt tóc ra khỏi mắt của Avery. – Mẹ cháu đã lớn lên với đầu óc lệch lạc. Không hẳn là tệ nạn xã hội, nhưng cũng gần như thế.

Mắt Avery mở to. Cô bé nói nho nhỏ:

- Carrie, dì vừa nói gần như thế.

- Dì nói đúng những điều dì nhận xét.

Avery đứng lên khỏi ghế, đến ngồi trên giường bên cạnh Carrie. Cô bé nắm bàn tay của dì rồi nói:

- Nhưng chắc dì không nói đúng những điều dì nhận xét.

- Để dì nhận xét cho cháu nghe. Một người tệ nạn xã hội là người không có lương tâm, và chắc cháu muốn biết lương tâm là gì. Lương tâm là cái nằm trong đầu cháu để nói cho cháu biết điều gì sai trái khi cháu mắc phải sai lầm. Lương tâm sẽ làm cho cháu cảm thấy cắn rứt.

- Như khi cháu nói với bà ngoại rằng cháu đã thực hành đàn xong, nhưng cháu không làm, rồi bà khen cháu ngoan, nhưng cháu không ngoan vì cháu nói láo, và thế là cháu cảm thấy lương tâm cắn rứt, phải không?

- Phải, đúng như thế đấy, -- Cô đáp. – Mẹ cháu không có trái tim hay là tâm hồn, sự thật là thế đấy.

- Giống như bài hát dì thích nhất, phải không? Có phải bài hát là loại trái tim hay tâm hồn không?

- Phải, giống bài hát, -- Carrie nói cho bé an tâm. – Jilly không có tânm hồn để cảm nhận những gì không có liên quan hay có lợi cho mình.

Avery dựa người vào một bên Carrie, ngước mắt nhìn cô, cặp mắt xanh tím đẹp tuyệt vời, đẹp hơn mắt mẹ bé rất nhiều. Carrie thấy được vẻ thanh khiết và tính thiện ẩn sau cặp mắt ấy.

- Jilly chỉ lo thương mình mà không thương ai hết, nhưng cháu đừng bỏ công lo buồn về chuyện này. Chuyện này không phải là lỗi của cháu. Cháu có tin dì không?

Avery gật đầu với vẻ trang trọng.

- Chính bà mẹ trời đánh của cháu mới có lỗi.

Carrie cười.

- Đúng thế.

- Cháu có tâm hồn không?

- Có chứ. Ai cũng có tâm hồn ngoại trừ mẹ cháu.

- Trước khi con Whiskers bị Jilly hành hạ cho đến chết, nó có tâm hồn không?

- Có lẽ có, -- Cô đáp, nhớ đến con mèo của cô đã bị Jilly dành lấy rồi hành hạ rất dã man với nó.

- Tâm hồn ở đâu?

- Tâm hồn của cháu ư? – Carrie suy nghĩ một hồi mới đáp. Nó ở trong người cháu, bao quanh trái tim của cháu. Tâm hồn cháu thanh khiết mãi. Cháu sẽ không được giống Jilly, Avery à.

- Nhưng dì nói cháu trông giống mẹ cháu.

- Việc trông giống bề ngoài không quan trọng. Bên trong người cháu mới là vấn đề quan trọng.

- Có phải Jilly thương dì và thương bà ngoại mà không thương cháu không?

Carrie chán nản.

- Dì tưởng cháu đã hiểu hết những điều dì nói. Jilly không thương ai hết, ngoài mình. Mẹ cháu không thương bà ngoại, không thương dì và không thương cháu. Bây giờ cháu đã hiểu chưa?

Avery gật đầu.

- Bây giờ cháu chơi với đồ nữ trang được không?

Carrie cười. Hình như đứa bé đã nghĩ đến những vấn đề quan trọng hơn. Cô nhìn bé ngồi nơi bàn trang điểm, lục đồ trong hộp ra lại.

- Cháu có biết điều tuyệt vời nhất đã xảy đến cho cháu không?

Averry trả lời, mắt không nhìn đi chỗ khác.

- Có dì làm dì Carrie của cháu.

- Có phải cháu cho thế là điều tuyệt vời nhất. -- Cô hỏi, vẻ ngạc nhiên và thích thú. – Tại sao thế?

- Vì điều mà dì nói với cháu là điều tuyệt vời nhất.

Carrie cười:

- Này cháu, có điều còn tuyệt vời hơn nữa.

- Điều gì?

- Cháu sẽ không lớn lên với nỗi lo sợ như dì đã chịu đựng. Jilly sẽ không trở về. Cháu sẽ không bao giờ gặp lại mẹ cháu nữa… không bao giờ. Đó là điều tuyệt vời nhất.

Vừa nói xong câu nói là Carrie cảm thấy ớn lạnh tận xương sống. Nói huênh hoang như thế có liều lĩnh không? Phải chăng khi tuyên bố không có ma quả là người ta có thể làm cho ma quỉ hiện lên? Cô cảm thấy sự ớn lạnh như là điều linh cảm. Nhưng dĩ nhiên không phải thế. Cô chỉ quá lo xa vậy thôi. Cô xua đuổi cảm giác lo sợ, cô trở lại với công việc.

Tuần tiếp theo cô bận rộn nhiều công việc. Avery chọn màu hồng để sơn tường, và Carrie thêm đường viền màu trắng. Cô nghĩ cái phòng ngủ trông như sự bùng phát một trường phái nghệ thuật mới, nhưng Avery thích thế. Vào chiều chủ nhật, cô bé yên vị ở phòng ngủ lớn phía trước. Carrie đã chất va li vào thùng xe hơi. Cô sẽ ngủ đêm cuối cùng ở phòng ngủ cũ của Avery trên cái giường thô ráp khó chịu.

Tối đó cả nhà ăn bữa tối có những món Carrie thích nhất. – Nhũng thức kiêng kỵ theo chế độ ăn kiêng của cô như gà chiên, khoai tây nghiền và nước sốt thịt, đậu xanh ninh. Lola dùng số rau bà trồng ở vườn sau để làm món salad tươi, nhưng Carrie không đụng đến. Vì cô đã quyết định không ăn kiêng một ngày – một ngày tự do tội lỗi kỳ diệu – nên cô đã ăn đủ các món kia căng cả ruột rồi.

Sau khi Lola đọc truyện cho Avery nghe xong và để cô bé vào giường, Carrie đến hôn chúc cô bé ngủ ngon. Cô bật đèn đêm, đóng cửa phòng ngủ, rồi xuống lầu làm tiếp một số công việc giấy tờ cần thiết.

Công việc này tiếp tục công việc khác mãi cho đến hơn mười một giờ cô mới lên lầu lại. Lola đã ngủ trong phòng bà ở phía sau nhà. Carrie kiểm tra Avery – Ôi, cô sẽ nhớ cô bé này biết bao – và khi thấy cô cháu gái nằm trong cái giường khổng lồ, cô muốn bật cười. Cô bé mang ít ra đến năm sợi dây chuyền và bỗn cái vòng đeo ở cổ tay. Cái vương miện đã mờ với những hạt kim cương bằng thủy tinh đã mất gần hết, vướng vào tóc nằm chệch sang một bên đầu. Cô bé nằm ngửa mà ngủ, ôm con gấu nhồi bông đã bị rách trong tay. Carrie ngồi xuống giường, nhẹ nhàng tháo đồ nữ trang để khỏi làm cho bé thức dậy.

Sau khi đã bỏ hết đồ trang sức rẻ tiền vào hộp, cô lặng lẽ đi ra cửa. Khi cô kéo cửa đóng lại thì bỗng nghe Avery thì thào nói:

- Chúc ngủ ngon, Carrie.

Khi Carrie quay lui nhìn cô bé, bé đã nhắm mắt. Trong ánh sáng yếu ớt chiếu vào từ đèn đường, cô bé trông như một thiên thần. Carrie nghĩ nếu cô bé là con ruột của cô, thì cô cũng chỉ thương yêu đến như thế này là cùng. Bản năng bảo vệ hết sức dồi dào trong lòng cô. Cô không thích nghĩ đến chuyện ra đi, cô cảm thấy như thể cô bỏ rơi đứa bé.

Nhưng Carrie tự nhắc nhở mình: cô phải ra đi. Tương lai của Avery phụ thuộc vào cô. Khi cô đã có cơ nghiệp, cô sẽ có thể giúp đỡ mẹ và cháu đầy đủ, xứng với trường hợp của họ. Carrie không muốn để cho tình cảm yếu đuối xen vào làm cản trở kế hoạch của cô. Cô phải đạt cho được mục đích và ước mơ của mình, Avery và Lola cũng phụ thuộc vào cả hai yếu tố này.

Khi cô đi ra hành lang để đến phòng tắm, cô nói lẩm bẩm:

- Mình đang làm điều đúng đắn. – Khi đứng dưới vòi nước, cô vẫn cứ tin như thế.

Carrie vừa mới vặn vòi nước cho chảy mạnh thì bỗng có tiếng cửa xe hơi đóng thật mạnh làm cho Avery thức giấc. Cô bé nghe có tiếng cười ồ ồ, liền vùng ra khỏi giường để xem ai làm ồn như thế. Cô thấy một người đàn ông và một người đàn bà. Họ đứng bên chiếc xe hơi cũ tả tơi, đầu chụm vào nhau, cười nói ồn ào.

Người đàn bà có mái tóc màu vàng. Người đàn ông tóc đen. Anh ta có cái gì nơi tay. Avery nhìn một bên cửa sổ nên họ không thấy cô bé, nếu thấy có thể họ la lớn biểu cô bé đừng chõ mũi vào. Người đàn ông đưa cái chai tu một hơi. Rồi anh ta đưa cho người đàn bà, chị ta ngửa đầu cũng tu một hơi.

Họ làm gì trước nhà của bà ngoại thế nhỉ? Avery quì xuống núp sau tấm màn viền đăng ten. Cô bé cuối đầu khi người đàn bà quay lui và đi lên vỉa hè. Người đàn ông trông có vẻ không được đứng đắn, không đi theo chị ta. Anh ta đứng dựa vào cái thanh chắn ở xe, mắt cá chân này tréo lên mắt cá chân kia. Anh ta tu một hơi khác, rồi ném cái chai không ra đường. Tiếng chai vỡ to như hơi thở hổn hển của Avery. Làm dơ bẩn cả đường xá, thật quá tệ. Bà ngoại Lola đã nói với cô như thế.

Gã đàn ông không nhìn vào ngôi nhà. Anh ta nhìn con đường, vì thế mà Avery nghĩ là tình thế yên ổn, nên đứng thẳng lên để nhìn cho rõ. Cô thấy khi anh ta quay người về phía chiếc xe, có cái gì thòi ra nơi túi quần sau. Cái gì thế nhỉ? Có lẽ là chai rượu khác?

Người đàn ông có vẻ không đứng đắn, mặc áo thun dơ bẩn, hẳn là khác nước kinh khủng, vì hắn đưa tay ra sau và lôi cái chai ra. Nhưng không phải cái chai. Avery thở hổn hển lại. Gã đàn ông không tốt, nắm trong tay một khẩu súng đen bóng loáng. Giống như loại súng cô bé thường thấy trên tivi.

Cô bé quá bị kích thích nên cảm thấy không còn lo sợ nữa. Cứ đợi xem ra sao để có thể kể cho Peyton nghe. Bé có nên đánh thức bà ngoại và dì Carrie dậy để nói cho họ biết về khẩu súng không? Có lẽ họ sẽ gọi cho ông sĩ quan ở đồn cảnh sát để ông ta đến tóm cổ anh chàng không tốt này đi.

Avery giật mình khi nghe tiếng đấm rầm rầm ở cửa trước. Bé nghĩ chắc là cô ấy đấm cửa để gọi bà ngoại vào lúc nửa đêm.

Cái cô này hét lớn những lời bậy bạ kinh khủng. Avery chạy lui vào giường, chui vào núp dưới chăn, phòng trường hợp bà ngoại vào kiểm tra bé trước khi xuống lầu để bảo cái cô ấy thôi đừng có làm ồn như thế nữa. Bé biết thế nào bà ngoại cũng nói với cô ta: " Chị muốn thức người chết dậy à? – Đúng, thế nào bà cũng nói thế cho mà xem. Như bà vẫn thường nói thế với Carrie khi dì ấy mở tivi hay máy hát thật to. Nhưng nếu bà ngoại đi xuống dưới nhà nhìn vào mà thấy không có Avery trong giường, bé không biết chuyện sẽ xảy ra thế nào.

Thỉnh thoảng người ta phải làm những việc xấu để tìm ra được vấn đề quan trọng. Peyton đã nói với bé rằng nghe người khác nói mà không nói lại cho ai biết những điều mình đã nghe, là chuyện rất tốt.

Tiếng đấm cửa thình thịch to hơn khi người đàn bà yêu cầu bà ngoại mở cửa cho chị ta vào.

Bà ngoại mở cửa, Avery nhìn chị ta la hét om sòm. Bé hiểu lời chị ta nói. Bỗng Avery không hiếu kỳ nữa. Bé hoảng sợ. Bé hất tấm chăn nhảy xuống giường, nằm sắp trên nền nhà, bò xuống trốn dưới giường. Bé chui nhanh đến đầu giường có ván chắn. Bé đã lớn rồi, quá lớn không thể khóc. Nước mắt chảy xuống hai má là vì bé nhắm hai con mắt quá chặt. Bé lấy hai tay bịt lại để khỏi nghe những lời la hét khủng khiếp.

Avery biết người đàn bà xấu ấy là ai. Chị ta là bà mẹ trời đánh của bé, Jilly, chị ta đến để bắt bé đi.